B
ên trong nhà nhờ chính San Sebastian khá lạnh, có mùi đá và đất sét đầm lầy. Chừng gần năm giờ chiều, Milo đến nhà thờ một mình. Ở hai bên, dọc theo những hành lang dài hẹp, không cửa sổ, những ngọn nến điện lập lòe nhìn rất chân thực, chiếu những bóng hình nhấp nhoáng lên các bức tường thạch cao được chùi rửa cẩn thận. Trên bục là bàn gỗ được trang trí một bát hoa hồng nhìn khá tẻ nhạt. Phía sau đó, trải dài đến trần nhà là những thiên thần cùng bầy chim và cá chim đang bay lượn, sáng rực rỡ trên những ruộng nho trĩu quả.
Milo chưa từng thấy cảnh tượng này. Cậu ngồi lên một chiếc ghế bằng gỗ sồi ở phía sau và nhìn chằm chằm cho đến khi mỏi cổ.
Đằng sau cậu có một cánh cửa với một dòng chữ trên đó. CHỈ DÀNH CHO NHÂN VIÊN VÀ LINH MỤC. Cậu không hiểu rõ “linh mục” nghĩa là gì, nhưng cậu hiểu rằng câu đó không phải “Hãy bước vào đi, Milo, cứ tự nhiên như ở nhà.” Cậu không ngại mấy vụ xâm nhập, đặc biệt khi cậu sẽ có một nơi trú chân khô ráo hơn trong đêm nay. Cánh cửa mở ra một sảnh đường ngắn, tối om với một cánh cửa ở cuối và một cánh ở bên. Từ phía xa nhất sảnh đường, cậu có thể nghe thấy những giọng nói, tiếng cười và âm thanh từ một cánh cửa khác mà cậu không thể nhìn thấy, đang đóng lại. Chuông điện thoại reo vang và cậu nghe thấy tiếng máy trả lời tự động. Cậu trườn ra sàn, cúi người thấp xuống và bò tới, ngó xem chuyện gì đang diễn ra.
“Bạn đang gọi đến nhà thờ trung tâm San Sebastian,” máy trả lời tự động phát tiếng. “Chúng tôi rất tiếc, nhưng văn phòng đã đóng cửa giờ này.” Đoạn băng được bật đi bật lại, đưa ra thông tin về các buổi lễ xưng tội và những số cần gọi trong trường hợp khẩn cấp. Milo nghe hết đoạn băng và chờ đợi. Khi không còn nghe thấy bất kì cuộc nói chuyện nào, cậu đoán văn phòng phía bên kia cửa đã nghỉ đêm.
Cánh cửa thứ hai mở ra một nhà kho lớn, có các ghế xếp và bàn, thùng nhựa dán nhãn đánh dấu bằng bút mực. Một cửa sổ nhỏ mở hướng ra phía sân. Cách đó vài mét, một mục sư trong bộ áo xám, tay mang dù, đang đi ra. Ông có một chùm chìa khóa to đeo quanh cổ tay. Milo đoán đó là mục sư chịu trách nhiệm khóa cửa nhà thờ vào buổi đêm.
Ở một góc trong kho có một thùng nhựa màu xanh, bên trong có vài hộp nhựa bị vỡ đang đợi mang đi tái chế. Cậu lôi chúng ra và đặt lên sàn trong bóng đêm, dựa vào mặt tường ở xa nhất so với cửa. Nếu mục sư có nhìn vào trong nhà kho, ông sẽ không thể thấy Milo. Cậu tìm kiếm quanh các giá xếp xem có thứ gì giữ ấm được cho mình. Không tìm thấy gì khác, cậu ngồi bó gối, run rẩy khi trời tối dần và phòng lạnh hơn. Cậu cố gắng lờ đi cơn đói đang tấn công mình. Cậu đang cân nhắc lợi hại của việc bị phát hiện. Trời càng trở nên lạnh hơn, thì cậu cũng dần quen với nó. Những người ở nhà thờ sẽ không bao giờ đuổi cậu đi dưới trời mưa. Có lẽ cậu sẽ được cho ăn và một nơi để ngủ. Cậu tì cằm lên đầu gối và đợi cửa mở.
Cửa vẫn đóng và cậu bắt đầu tò mò về văn phòng ở cuối sảnh với những thứ mọi người cất trong ngăn kéo, ít nhất cũng có một thanh kẹo trong đó. Có thể là một nửa thanh socola. Có thể có áo len hoặc áo khoác vắt trên ghế. Một tấm thảm chắc chắn là ấm hơn sàn xi măng và mấy miếng bìa. Cậu bước ra khỏi nhà kho vào sảnh đường tối om, tì bàn tay trái lên tường, dò dẫm bước đi đến khi cậu tìm được cửa và sờ vào tay nắm.
Cậu bước vào một văn phòng lớn có rất nhiều cửa sổ. Một số quay ra hướng sân tối om, nơi những con đường và vỉa hè đang lấp lánh mờ ảo trong cơn mưa. Dọc qua căn phòng, nhiều cánh cửa sổ mở ra một khoảng sân trống khác. Ánh đèn ô tô hiếm hoi nhắc Milo rằng có một con phố sau những bức tường đó. Văn phòng có bốn cái bàn xếp thành hàng đôi, đối diện nhau và một cái bàn làm việc khác dựa vào mảng tường không có cửa sổ, dưới chân thánh giá. Treo cạnh đó là bức vẽ một người đàn ông lớn tuổi, mà Milo khi nhìn vào có cảm tưởng như cậu mới bị bắt quả tang đang trộm ví thầy giáo lớp ba vậy. Trong một góc khác có một giá treo đồ, không có gì ngoài một mảnh khăn choàng. Lôi nó ra khỏi mắc, Milo cuốn người trong một mùi hương ngọt ngào, ấm áp. Cậu tưởng tượng hình ảnh một người phụ nữ thỉnh thoảng quàng nó lên vai và phần sau cổ, một người phụ nữ mềm mại, với đôi tay tròn trịa có mùi kẹo cứng. Tấm khăn cũng ấm và đủ dài để quấn quanh vai cậu hai vòng, sự mềm mại và mùi hương của nó khiến Milo ứa nước mắt.
Một số ngăn kéo bàn và tất cả các tập tin đã bị khóa. Những gì có thể mở được, cậu đều mở ra, nhưng không có gì để ăn. Trong thùng rác có giấy gói bánh mì và gói khoai chiên trống không. Một mẩu giấy có dính chút mayonaise. Cậu cho giấy vào miệng và mút mát. Khi làm như vậy, cảm giác bất lực tràn ngập và cậu cảm thấy mình thật yếu hèn dưới gánh nặng cuộc đời.
Cậu phát hiện ra một lò sưởi nhỏ dưới gầm bàn và cuộn tròn trên tấm thảm trước lò sưởi, với chiếc khăn thơm quấn quanh đầu và vai của mình. Cậu mơ thấy mì ống và pho mát của bà Iva và cơn đói lại đánh thức cậu trước khi trời sáng.
Trời vẫn còn mưa và hẳn lò sưởi được hẹn giờ bởi nó đã tắt một lúc trước đó. Milo không rõ hôm nay là thứ mấy, nhưng cậu không muốn mạo hiểm bị bắt gặp bởi một cô thư ký sắp đến. Cậu quay trở lại cánh tủ, trả lại đống bìa các-tông vào thùng màu xanh, nghĩ rằng mình thật khôn ngoan khi che đậy các dấu vết của mình trong trường hợp cậu quay lại đây vào đêm khác. Cậu giữ lấy chiếc khăn, tuy nhiên, buộc phải gói và buộc nó quanh ngực mình phía trong áo khoác vẫn còn ẩm ướt. Cậu đi ra qua lối cửa trước. Người đến văn phòng đầu tiên sẽ tự hỏi tại sao cửa không khóa và một ai đó sẽ chịu trách nhiệm vì đã bất cẩn.
Dưới cơn mưa phùn, chạy từ mái hiên này sang các mái hiên khác, cậu đi qua vài dãy nhà dọc theo phố Mission và quay lại hướng đối diện phố Maine để tìm một tiệm cà phê. Ngay khi tìm được một quán, nơi đó hoàn toàn vắng vẻ ngoại trừ một cô gái nhuộm tóc tím, đang sắp xếp bánh ngọt trên quầy. Cái đói làm cậu hoa mắt, nhưng không cần hỏi cậu cũng biết cái bánh ngọt lấp lánh trong túi giấy kia đắt hơn số tiền cậu mang trong người. Cậu gọi một cốc socola nóng với kem tươi và nhặt lấy cái bánh kẹp cuối cùng trong một giỏ ghi nhãn Ngày cũ. Cậu đưa tờ mười đô cho cô gái ở quầy thu ngân, hi vọng lấy lại được tiền thừa. Cô ta đòi cậu thêm một đô nữa.
Cậu ngồi bên ngoài dưới mái hiên kim loại và tự nhắc mình phải từ từ nhai từng miếng bánh kẹp. Sau một lúc, cậu uống thêm một tách cà phê. Cậu đã hỏi người pha chế liệu cà phê có rẻ hơn nếu không dùng kem không, cô gái bật cười như thể cậu đang đùa. Sau đó, cô đi ra với một ly đồ uống khác, cô nói lấy trên nhà xuống. Vô tình, cậu hỏi cô liệu cô có biết Donny Crider là người như thế nào không.
“Không hỏi chuyện cá nhân, ơn Chúa.” “Thế cô có biết luật sư của cậu ta không?”
“Ai cũng biết cả. Em trai cô ta là cố vấn của tôi năm cuối cấp.” Cô gái đứng chống hông bên cạnh anh, khoe vòng bụng.
“Sophie Giraudo. Tôi thấy cô ấy trên TV. Cô ta khá nổi tiếng, tôi đoán vậy. Tại sao cậu cần luật sư vậy? Đang gặp rắc rối gì à?” Cậu ngay lập tức phủ nhận.
“Cô ta có lẽ điên rồi, nhận cái công việc chết tiệt đó.” “Tôi biết cậu ta.”
“Hey, chuyện này không đùa được đâu.” Cô ngồi xuống. “Mọi chuyện như thế nào?”
Milo băn khoăn liệu những người đi ngang qua có nghĩ rằng cô ấy là bạn gái mình không.
“Tôi nhìn thấy hình cậu ta,” cô nói. “Khá đẹp trai nhưng hơi lập dị, phải không?”
“Đúng rồi. Lập dị.”
Những cậu bé khác trong chương trình của Roman Devane không hề quan tâm đến mấy cái cây nhiều hơn Milo chút nào, nhưng Donny hoàn toàn khác. Mặc dù hầu như không nói chuyện với bất cứ ai nhưng Donny lại mở miệng khi cậu trồng, tỉa cây - đó chắc chắn là một việc không bình thường. Cộng với việc cậu nhớ được những cái tên Latin, tự lập một danh sách và lẩm bẩm từng từ trong hơi thở của mình như thể cậu ta tìm thấy niềm vui trong những âm thanh kì dị đó.
“Cậu ở gần đây hả?” cô gái hỏi. “Tôi đã từng sống ở Santa Barbara, nhưng không có gì dưới đó cả, ngoại trừ mấy tay người đồng tính và mấy bà cô chơi bài Bridge*. Tẻ-nhạt.”
* Hay còn gọi là bài Cầu, một kiểu chơi dùng bộ bài tây phổ biến ở Mỹ, Anh và các nước châu Âu.
“Cô có biết địa điểm văn phòng luật sư không?”
“Tại sao cậu cần một luật sư vậy?” Cô hỏi lại lần nữa.
Kế hoạch của Milo không liên quan gì đến cô ta hết, nhưng cậu cố gắng giấu đi quan điểm của mình và nói mơ hồ chuyện mình có thông tin về vụ việc. Cậu thích cách cô ta nhìn mình khi nghe cậu nói vậy. Sự thật là cậu biết những chuyện về Donny và Roman mà các luật sư sẽ trả tiền để được nghe. Trên truyền hình, những trao đổi như vậy là quá bình thường giữa luật sư và người cung cấp thông tin. Dù vậy cậu không được quá vội vã. Theo kinh nghiệm của Milo, nóng vội là một điểm yếu.
Cô gái nói, “Có lẽ cô ta làm việc gần tòa án. Có rất nhiều luật sư ở đó.”
Cô gái chỉ hướng và Milo bước đi theo đường cô ta chỉ. Cuối cùng, cậu cũng tìm thấy tòa nhà có tên Sophie Giraudo trên tấm biển ngay lối vào. Giờ cậu đã ở đây, trong văn phòng Sophie, đôi giày đầy bùn lem nhem để lại dấu chân trên thảm. Có vẻ cô ta rất mừng khi gặp lại cậu.