• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Khơi nguồn tiềm năng con trẻ
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 40
  • Sau

3 Ý nghĩa của sự chống đối

Tại sao lại có sự chống đối?

Từ thời kỳ sơ sinh, trẻ đã biểu hiện thái độ chống đối cha mẹ. Điều này biểu hiện rõ nhất trong những lúc ăn uống. Khi mẹ nghĩ: “Uống sữa càng nhiều càng tốt, ăn dặm càng nhiều càng tốt”, và ép buộc trẻ phải ăn phải uống, trẻ bắt đầu chống đối lại. Trẻ sẽ ngậm chặt miệng, hay bắt đầu chơi đùa, đúng không nào? Hầu hết trẻ em đều ghét uống sữa hoặc rất ít ăn, nguyên nhân là vì người mẹ thường ép chúng trong bữa ăn.

Người mẹ thường lo lắng về vấn đề này cho nên đã nóng lòng bắt trẻ phải ăn uống. Những bữa ăn như thế đã trở thành một cuộc chiến giữa mẹ và con.

Tại sao trẻ lại chống đối? Đó là vì người mẹ đã bỏ qua hành động thèm ăn mang tính bản năng của trẻ mà muốn trẻ ăn theo ý muốn của họ, bởi mẹ thường mong muốn con mình có được sự phát triển tốt nhất. Những người lớn có tạng người gầy thì trẻ em cũng thường nhỏ người. Và khả năng hấp thu thức ăn của mỗi trẻ cũng khác. Có trẻ dù ăn rất nhiều nhưng vẫn không tăng cân nhiều, khiến các bà mẹ lo lắng. Nhưng đó chính là đặc tính riêng của cơ thể đứa trẻ. Hơn nữa, cũng có trẻ phù hợp với lượng thức ăn ít. Dù trẻ tăng cân chậm nhưng nếu trẻ vẫn khỏe mạnh và trí óc phát triển bình thường thì không có gì đáng lo ngại cả.

Nếu tôn trọng đặc tính riêng của cơ thể trẻ, nếu trẻ nói rằng không muốn ăn nữa thì nên kết thúc bữa ăn mặc dù lượng thức ăn trẻ tiếp nhận được rất ít. Tức là không ép buộc trẻ. Đó là chưa kể có bữa này bữa khác, trẻ không muốn ăn hoặc có lúc ăn rất nhiều. Cũng như người lớn khi bệnh hoặc mệt mỏi thì chỉ muốn ăn qua loa cho xong, hoặc có lúc thèm ăn thì ăn nhiều hơn so với lượng thức ăn hàng ngày. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ăn quanh quẩn một vài món quen thuộc, khiến trẻ rất ngán.

Khi các bà mẹ càng ép buộc trẻ ăn, trẻ sẽ càng chán ghét việc ăn. Có trẻ vừa khóc vừa la trong khi miệng ngậm đầy thức ăn, không chịu nuốt, nhưng mẹ vẫn ép ăn cho bằng được. Thử nghĩ người lớn có thể cảm thấy ăn ngon miệng trong khi khóc không nhỉ? Khi ăn, phải tạo bầu không khí thật thoải mái cho trẻ, chính sự thoải mái đó mới giúp thức ăn tiêu hóa tốt.

Trẻ em vào cuối giai đoạn ba tuổi sẽ có thêm một trạng thái chống đối cha mẹ nữa. Đó là lúc cha mẹ chưa kịp dạy cho trẻ cách đi đại tiện và tiểu tiện, rồi chúng lỡ tè dầm. Nguyên nhân là vì người mẹ đã cố gắng ép trẻ vào khuôn khổ đại tiện đúng cách trong lúc chúng gấp gáp. Những người mẹ như vậy vì muốn nhanh chóng cho nên thường ép buộc trẻ ngồi vào bô hay lằng nhằng kêu chúng vào nhà vệ sinh, rồi nói: “Con đi đại tiện nhé?”. Khi không cho trẻ đại tiện được thì la mắng hay đánh con, làm vẻ mặt khó chịu.

Quả thật đối với người mẹ, cho trẻ vào khuôn khổ sớm sẽ rất tiện lợi. Tiết kiệm được rất nhiều công sức. Hơn nữa, người mẹ cũng có thể tự hào về chuyện đó. Tuy nhiên, mỗi trẻ đều có một giai đoạn phát triển riêng. Đó cũng là đặc tính riêng. Nếu người mẹ muốn giáo dục con theo cách tương đối nhanh chóng, thì nên dạy trẻ đưa ra một tín hiệu nào đó khi muốn đại tiện.

Khi thay tã cho trẻ, người mẹ nên nói những câu như: “Xì xì, con đi tiểu rồi nhỉ!” để hướng dẫn cho trẻ, phụ thuộc vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ mà không có chút vội vàng, sau đó trẻ sẽ dần dần nói theo câu “Xì xì”, rồi tăng dần số lần phát ra câu nói trên. Lúc đó, nếu người mẹ khen: “Hay quá”, thì điều đó sẽ trở thành sự khuyến khích lớn cho trẻ, số lần đại tiểu tiện của trẻ trong khoảng thời gian từ hai tuổi rưỡi đến ba tuổi sẽ ít đi rất nhiều.

Do đó, nên đặt mục tiêu vào lúc trẻ ba tuổi, giai đoạn này trẻ có thể tự đi đại tiểu tiện là phù hợp nhất. Việc người mẹ vội vàng đưa trẻ vào khuôn phép sẽ cho trẻ cảm giác không thoải mái, dẫn đến chứng đi tiểu lắt nhắt, tè dầm hay tiểu đêm. Đây cũng là nguyên nhân khiến trẻ đặt câu hỏi liệu mẹ có phải là người rộng lượng hay không. Những người mẹ vội vàng đưa trẻ vào khuôn phép mà ép buộc trẻ phải đại tiểu tiện đúng cách càng ngày càng nhiều hơn. Mỗi lần bị mẹ mắng vì không đại tiểu tiện đúng cách, cảm giác yếm thế của đứa trẻ trở nên mãnh liệt hơn. Điều đó càng thúc đẩy sự chống đối người mẹ, mối liên kết tình cảm giữa mẹ và con sẽ dần mất đi. Vì thế, người mẹ cần học cách kiên nhẫn với con và tôn trọng con. Nói là tôn trọng nghe có vẻ đao to búa lớn, nhưng ngẫm lại người lớn thực sự phải cư xử đúng như thế với con cái của mình. Họ cần phải tôn trọng ý muốn của con, tôn trọng những đặc tính riêng của con. Bản thân người lớn cũng muốn người khác tôn trọng những ý muốn của mình thì làm ơn cũng tôn trọng trẻ như thế. Khi đã có sự tôn trọng thì người mẹ sẽ không la mắng con cái khi con cái đi đại tiểu tiện không đúng cách… mà thay vào đó sẽ khuyến khích con để trẻ tự tin hơn vào bản thân. Thử ngẫm lại lúc người lớn còn bé, họ khi ấy cũng tè dầm hay cũng có không ít tật xấu. Suy cho cùng, sự la mắng của người mẹ khi con đại tiểu tiện không đúng cách hay tè dầm… xuất phát từ việc người mẹ đó cảm thấy con cái đang gây phiền toái cho họ vì họ phải thay quần, tắm rửa lại cho con, lau dọn hiện trường. Người mẹ cần thay đổi tư tưởng và xem tất cả những điều đó là những trải nghiệm mà hầu như ai, ngay cả bản thân, cũng trải qua trong quá trình trưởng thành. Người mẹ cần cảm thông để giúp trẻ vượt qua những tật xấu như thế. Khi đó, tình cảm mẹ con sẽ càng gắn kết hơn.

Giai đoạn đầu của thời kỳ chống đối

Trong trường hợp trẻ phát triển tính tự giác một cách thuận lợi, khoảng thời gian gọi là “giai đoạn đầu của thời kỳ chống đối” được biểu hiện rõ nhất khi trẻ trong khoảng từ hai đến ba tuổi. Vào khoảng một tuổi, những đứa trẻ này được chấp nhận sự nghịch ngợm, được phát triển tính tự giác một cách thuận lợi.

Giai đoạn đầu của thời kỳ chống đối là lúc trẻ thường xuyên nói những câu “Không muốn!” nhiều nhất. Khi cha mẹ nói bằng giọng điệu ra lệnh một chút như: “Con hãy làm đi”, thì trẻ sẽ đáp lại: “Không muốn!”. Việc những người mẹ nói bằng giọng điệu ra lệnh và trẻ đáp lại: “Không muốn!” ngày càng nhiều, thậm chí chúng sẽ phản ứng theo kiểu “Không muốn!” trong mọi tình huống. Cũng có đứa khi được hỏi: “Con thích sôcôla đúng không nào?”, ban đầu trẻ sẽ lập tức trả lời: “Con ghét lắm”, nhưng sau đó lại vội vàng đính chính: “Vâng con thích lắm, thích lắm”.

Để giảm bớt tần suất của từ “Không muốn!” ở trẻ, cha mẹ cần cố gắng không sử dụng giọng điệu ra lệnh khi nói chuyện với con. Người mẹ cần biểu lộ cho trẻ thấy cảm xúc của mình như: “Nếu con làm điều đó thì mẹ sẽ vui lắm đấy”, hoặc “Con không muốn làm việc đó cho mẹ sao?”, sau đó để mặc cho trẻ tự lo liệu. Có lẽ trẻ sẽ không nghe lời mẹ ngay, nhưng điều đó cũng sẽ giúp truyền đạt được tâm tư của người mẹ đến trẻ. Và những hành động tiếp theo của trẻ sẽ thay đổi từng chút một. Vì sự quan tâm đến người khác của trẻ đã bắt đầu nảy mầm.

Ở giai đoạn đầu của thời kỳ chống đối, cùng với câu “Không muốn!”, những câu nói mang tính từ chối sự giúp đỡ của cha mẹ như “Con sẽ tự làm!” cũng xuất hiện khá nhiều. Điều này biểu lộ tính tự lập, tự giác của trẻ khi trẻ muốn tự mình làm tất cả mọi thứ, cho nên cha mẹ cần tôn trọng khi trẻ cứ khăng khăng: “Con sẽ tự làm!”. Khi nghe trẻ nói những câu như vậy, với những việc làm quá sức đối với trẻ thì các bậc cha mẹ sẽ lập tức muốn la mắng trẻ. Thế nhưng trẻ không hề biết được rằng sức mình có thể làm được điều gì. Vì vậy, bất cứ điều gì trẻ cũng muốn làm thử. Tôi nghĩ cha mẹ cần trân trọng ý muốn đó của trẻ.

Đừng mang suy nghĩ: “Chỉ giỏi khoa trương thôi”, mà hãy để trẻ làm thử xem. Những đứa trẻ giàu ý chí, được phát triển tính tự giác một cách suôn sẻ luôn muốn thử làm mọi thứ, bỏ công sức ra để làm cái này cái kia. Điều này sẽ giúp trẻ hình thành khả năng tư duy. Nếu không làm được, có thể trẻ sẽ bật khóc. Khóc vì bực bội. Cố gắng đừng nên trách mắng hay mỉa mai trẻ vì chuyện này.

Ngược lại, cha mẹ cần có thái độ khích lệ: “Cố lên nào!”, và nhìn chăm chú vào chúng. Cuối cùng, khi đã làm được, trẻ sẽ rất tự hào. Có được thành quả sau khi thử làm một điều gì đó khó khăn, với suy nghĩ: “Nếu mình thử thì mình có thể làm được”, trẻ sẽ trở nên mạnh mẽ.

Đây được gọi là sự tự tin hay cảm giác bản thân mình có giá trị. Hãy nói những câu như: “Hay quá!” hoặc “Cừ thật đấy!” để chia sẻ niềm vui đó với trẻ. Đây là sự đồng cảm, cũng là thái độ quan tâm của bậc cha mẹ. Khi trẻ có được sự công nhận từ người khác, cụ thể là cha mẹ mình, trẻ sẽ càng tự tin.

Nếu trẻ đã cố gắng rất nhiều nhưng vẫn không thể làm được, trẻ sẽ nói: “Mẹ làm cho con đi”. Lúc đó, nên nói những câu tương tự như: “Con xem nhé!”, tránh tuyệt đối nói ra những câu la mắng, trách móc trẻ, vì đó là lúc trẻ đang có cảm giác kém cỏi. Những đứa trẻ bị giội xuống những lời nói tiêu cực như vậy sẽ càng lúc càng bị cảm giác kém cỏi đè nặng. Chính điều này đã hình thành nên những đứa trẻ thiếu tự tin.

Vậy thì cha mẹ nên nói như thế nào đây? “Lần tới hãy cố gắng lên nhé”. Tóm lại, hãy kích thích ý muốn thử làm lại cho trẻ. Và đừng quên tạo cho trẻ cơ hội để được làm lại một lần nữa. Vì khi làm được việc đã từng thất bại trong quá khứ, trẻ sẽ hình thành được sự tự tin vô cùng mạnh mẽ.

Nói cách khác, trải nghiệm sự thất bại cũng rất quan trọng. Do đó, hãy dần dần tạo cho trẻ cơ hội được trải nghiệm sự thất bại. Quan trọng là thái độ của cha mẹ đối với sự thất bại của con. Hãy cho trẻ thấy cha mẹ luôn tin tưởng con rằng: “Con thất bại lần này, nhưng lần sau con sẽ thành công vì mình đã có kinh nghiệm từ sự thất bại”. Đừng quên nhắm đến những việc có thể tạo thêm cơ hội thành công ở lần sau cho trẻ.

Xin được giới thiệu những biểu hiện thường thấy ở trẻ trong giai đoạn từ hai đến ba tuổi. Đó là tình huống xảy ra vào ngày nghỉ, trẻ thức dậy lúc cả nhà chuẩn bị ra ngoài.

Đứa trẻ được lấy sẵn áo quần sạch ra nhưng không muốn mẹ chúng giúp cài nút áo mà nói: “Con sẽ tự làm!”. Vì trẻ chưa đến độ tuổi có thể tự cài nút áo, cho nên nếu để mặc như vậy, trẻ sẽ không thể làm được. Cũng có trường hợp trẻ sẽ tự cáu kỉnh một mình. Cuối cùng cũng đã đến giờ xuất phát. Lúc đó, khi người mẹ định giúp trẻ cài nút áo, trẻ vẫn sẽ khăng khăng tiếp tục cố gắng: “Con sẽ tự làm!”. Vì trẻ vẫn cứ bướng bỉnh như thế, người mẹ bắt đầu tức giận. Và mẹ sẽ không nói cho trẻ biết điều đó có được phép tự làm hay không mà im lặng cài nút cho trẻ, đúng không nào? Nếu làm như vậy, lòng tự trọng của trẻ sẽ bị tổn thương, trẻ sẽ tủi thân mà khóc òa lên và cởi hết nút áo ra.

Ngay lập tức, người mẹ sẽ đe dọa: “Mẹ cho con ở nhà đấy”, hoặc “Mẹ sẽ không dẫn con đi chơi đâu nha”. Những câu nói dọa nạt như vậy chỉ là nói suông mà thôi. Vì vậy, người mẹ sẽ kéo đứa trẻ vẫn còn đang vùng vằng khóc rồi đưa vào xe. Đáng lẽ đấy sẽ là một buổi đi chơi vui vẻ, nhưng vì một chút náo động lúc khởi hành mà tâm trạng của người cha lẫn người mẹ hoàn toàn đi xuống. Và có lẽ cha mẹ cũng sẽ có ấn tượng rằng con mình là đứa trẻ hư.

Thế nhưng đó không phải là đứa trẻ hư. Đó là biểu hiện cho giai đoạn đầu của thời kỳ chống đối. Để ngăn chặn tình huống này, cần bắt đầu giai đoạn chuẩn bị thay áo quần cho trẻ sớm hơn hai mươi đến ba mươi phút. Và khi trẻ nói: “Con muốn tự cài nút áo”, hãy đáp lại: “Được, con làm cho mẹ xem nào”, sau đó để cho trẻ tự lo liệu, người mẹ cũng có thời gian để đi thay áo quần. Ở độ tuổi đó, dù trẻ có thử biết bao nhiêu lần đi chăng nữa cũng không thể cài được nút áo. Cuối cùng trẻ sẽ từ bỏ và nói: “Mẹ làm giúp con đi”. Lúc đó cũng vừa đúng giờ phải xuất phát, cho nên cách làm này cũng giúp tránh được nhiều rắc rối. Cho dù có xảy ra rắc rối đi chăng nữa, mong rằng người mẹ cũng sẽ không nghĩ con mình là đứa trẻ hư. Hơn nữa, mẹ cũng có thể chỉ cho con cách cài nút áo sau khi trẻ đã thử cài mà không được. Nếu dưới sự hướng dẫn của người mẹ mà trẻ làm được thì trẻ sẽ rất vui, phải không nào? Những lần sau nếu trẻ tự cài nút áo thì trẻ sẽ làm được dễ dàng hơn.

Giai đoạn giữa của thời kỳ chống đối

Từ bảy đến chín tuổi là lúc trạng thái mà tôi gọi là giai đoạn giữa của thời kỳ chống đối được biểu lộ, nhưng cho đến lúc đó, trẻ vẫn có cái tôi rất lớn, thường sử dụng những câu nói như: “Không muốn”, hay “Con sẽ tự làm”. Hãy thử suy nghĩ xem, tại sao lúc đó trẻ lại có thái độ chống đối như vậy?

Bước vào giai đoạn giữa của thời kỳ chống đối, trẻ sẽ càng cãi lại cha mẹ nhiều hơn. Tóm lại, đây là lúc trạng thái chống đối bằng nhiều lý do được biểu hiện rất rõ.

Hãy cùng suy ngẫm về ví dụ sau. Cha mẹ nhờ trẻ mang một cái khay đựng bát đũa vào bếp. Trẻ rất vui vẻ đồng ý, nhưng lại nâng khay bằng một tay và đặt lên vai giống như người giao đồ ăn trong nhà hàng. Người mẹ khi nhìn thấy cảnh tượng ấy sẽ cảm thấy như thế nào, sẽ nói gì đây? Không ít người mẹ sẽ có cách nghĩ mang tính thực dụng rằng: “Đừng có làm vỡ bát đũa đấy”. Những người mẹ suy nghĩ theo cách đó sẽ nói bằng giọng điệu ra lệnh: “Con bê cho đàng hoàng đi”, hoặc là “Đừng có bê đồ như thế”. Nếu đó là người mẹ hiểu được quá trình phát triển hay thấu hiểu được cảm xúc của trẻ, họ sẽ im lặng và theo dõi trẻ. Vì đó là cách trẻ biểu hiện ý muốn thử thách của mình.

Lý do là vì trẻ đã nhìn thấy dáng điệu của người giao đồ ăn, sau đó trẻ muốn bắt chước làm thử xem sao. Do đó, trẻ nghĩ rằng cơ hội đã đến.

Nếu là người mẹ có được suy nghĩ thoải mái như thế, họ sẽ im lặng và dõi theo trẻ. Hơn nữa, khi trẻ có thể bê khay một cách chắc chắn, thậm chí người mẹ còn có thể động viên tinh thần trẻ bằng những câu nói: “Con làm được đấy nhỉ”, hay “Thành công rồi!”. Đây chính là sự đồng cảm.

Nếu người mẹ luôn dành thời gian quan tâm đến vấn đề này thì trẻ có thể ngầm nhận ra. Hơn nữa, khi đã hiểu nhau thì các bậc cha mẹ sẽ có thể đặt mình vào vị trí của con và dành cho con những lời khen như: “Con làm tốt lắm!”, “Con đã làm được rồi!”. Đối với trẻ con mà nói, những lời khen của cha mẹ cũng khiến trẻ cảm thấy mãn nguyện. Khi đó, trẻ sẽ chủ động hơn và đưa ra những lời đề nghị như: “Mẹ để con làm cho!”. Người mẹ nên để trẻ tự đưa ra lời đề nghị giúp đỡ như thế. Khi trẻ có được những trải nghiệm như vậy, những cuộc phiêu lưu về sau không còn là vấn đề nữa, vì trẻ đã tốt nghiệp khóa huấn luyện phát triển bản thân.

Tuy nhiên, những người mẹ hay cảnh cáo hoặc ra lệnh với con sẽ khó có thể cảm thông với tâm trạng của con, mà không chỉ vậy, vì người mẹ sẽ cảm thấy phiền hà, kiểu như: “Đừng bắt mẹ phải nhắc lại...” nên sẽ không có chuyện khen ngợi con dẫu con có giỏi như thế nào đi nữa. Trên đời này vẫn có những người mẹ sẽ nói ra những lời như vậy. Và cũng sẽ có những người mẹ vừa nói xong câu “Con ngừng phá phách giùm mẹ ngay đi!” đã vội rời đi. Với trẻ mà nói, những câu nói đó sẽ làm mất đi cảm giác muốn giúp đỡ cha mẹ ở trẻ. Do đó, người mẹ dẫu có muốn trẻ giúp đỡ mình ở những lần tiếp theo thì câu đáp lại chẳng phải sẽ là “Con không thích!” hay sao? Nếu tình huống như vậy xảy ra thì người mẹ sẽ tức giận: “Con không biết nghe lời cha mẹ gì cả!” và càu nhàu rằng: “Con là một đứa trẻ chẳng bao giờ biết giúp đỡ cha mẹ!”.

Khi đó, nếu trẻ không giữ được bình tĩnh mà quăng vỡ chén bát thì cha mẹ nên làm gì? Cha mẹ nào nếu quá quan trọng vật chất tiền bạc thì hẳn sẽ to tiếng quát tháo con, thậm chí có người mẹ còn đánh cả con của mình. Đấy hoàn toàn không phải là những điều nên làm của một người mẹ hiểu con. Cả bản thân người cha, người mẹ chẳng phải cũng có lúc ném vỡ đồ đạc hay sao? Những lúc như vậy, cha mẹ cũng chỉ nghĩ là: “Thôi xong”, “Lỡ vậy rồi”. Và thường những lúc như vậy, chúng ta sẽ nghĩ là từ giờ sẽ cố gắng không lặp lại những thất bại như vậy nữa. Người mẹ khi làm vỡ bát hẳn là sẽ nghĩ: “Chết, vỡ rồi!”, tuy nhiên vì không có ai la mắng nên cứ vậy mà vứt đi vụn chén đã vỡ và bản thân người mẹ ý thức được rằng đây là vật mình mua. Do đó, người mẹ không cần thiết phải xin lỗi bất kỳ ai trong gia đình cả.

Người mẹ cần có lý do chính đáng lúc la mắng con nếu con làm vỡ đồ vật. Hẳn sẽ có những lúc người mẹ tức giận với con khi con làm vỡ đồ vật, nguyên nhân có thể là vì người mẹ ý thức được đây là đồ mình mua. Hơn nữa, lý do chính mà người mẹ la mắng con còn là vì con đã không nghe lời họ.

Ở Nhật dù đi bất cứ đâu, trong những tình huống này, câu cửa miệng của người mẹ là: “Nhìn xem con đã làm gì kìa!” chứ không phải là không nói gì. Vì cũng có khi những lời nói như vậy của mẹ xuất phát từ cảm xúc trách móc con cái nên sẽ tác động đến con, tương tự như câu “Đáng đời!” vậy. Khi người mẹ nói câu: “Nhìn xem con đã làm gì kìa!” thì sau đó sẽ không còn muốn chỉ trích con nữa. Nếu con không nghe lời hay khi con không còn bình tĩnh như bình thường, sự tức giận sẽ vô tình làm cho người mẹ cứ thế nói ra những khuyết điểm, những thiếu sót ở trẻ. Trẻ con (và cả người lớn) nếu phải chịu đựng nghe người khác chỉ trích mình thì dần sẽ cảm thấy chán ghét, ngán ngẫm mọi thứ. Thậm chí, các bà mẹ còn mắng hay đánh đập con nữa.

Cách dạy con như vậy đã được ông cha ta áp dụng từ xa xưa. Những người làm cha làm mẹ bây giờ khi nhớ lại ngày xưa, lúc còn thơ bé, ắt hẳn cũng đã từng bị la mắng, bị đòn roi, bị cảnh cáo như thế. Tôi hy vọng các bậc cha mẹ hãy suy nghĩ kỹ càng hơn, rằng cách dạy dỗ đó là để hướng đến sự hoàn thiện nhân cách của con hay là để con chú ý hơn nữa.

Cũng sẽ có những đứa trẻ khi bị mẹ nhắc nhở: “Nhìn xem con đã làm gì!”, rồi nhận được câu nói của trẻ rằng: “Chính mẹ cũng từng làm vỡ đồ mà”. Những lúc như thế chẳng phải là sẽ có nhiều người mẹ dừng việc la mắng con lại hay sao? Vậy tại sao dừng lại? Có một vài lý do để giải thích cho điều này. Thứ nhất, cách suy nghĩ cổ hủ theo kiểu phong kiến – như việc con phải “Dạ” khi cha mẹ nói – vẫn còn đọng lại ở những bà mẹ hiện nay. Lối suy nghĩ đó đã được tiêm nhiễm vào họ trong quá trình lớn lên bởi những bậc cha mẹ đi trước. Trong thời đại phong kiến, trả lời lại cha mẹ là một hành động không được cho phép. Cãi lại cha mẹ sẽ bị cho là “Con bất hiếu!” và bị la mắng, đánh đòn. Bất hiếu với cha mẹ thường đi liền với bất trung, vì vậy việc cãi lại mẹ cha được xem là một hành vi cực kỳ không tốt. Và nó được xem như là “đại nghịch bất đạo”. Cha mẹ hiện nay được dạy dỗ bởi bậc cha ông đi trước nên vẫn luôn cho rằng việc con cãi lại chính là một hành vi không tốt, vì vậy đã nổi giận với con mình. Đó là hệ quả của nền giáo dục theo khuôn khổ, cưỡng ép và chắc chắn nền giáo dục này sẽ tạo ra những đứa trẻ thích chống đối, thậm chí ngỗ ngược, quậy phá, có xu hướng bạo lực khi bước vào tuổi dậy thì, hoặc sẽ tạo ra những đứa trẻ quá ngoan, thiếu sinh khí, thiếu hoạt bát và thiếu năng lực sáng tạo, chủ động.

Tại những quốc gia dân chủ, trẻ con được dạy là: “Hãy tự do nói ra ý kiến của bản thân!”, trong đó bao gồm cả cách nói “Không”. Vì thế, các bậc cha mẹ hãy chấp nhận việc con cái nói: “Mẹ cũng từng làm vỡ đồ mà!” chính là con đã nói lên ý kiến của mình. Lúc đó, bị con chỉ trích như thế sẽ làm cha mẹ nhận ra rằng bản thân cũng đã từng làm vỡ đồ. Cha mẹ sẽ nhận ra được lỗi của bản thân và trả lời rằng: “Ừ, đúng vậy nhỉ!”. Tóm lại, hãy là một người mẹ có thể nhận ra được vấn đề của bản thân một cách khiêm nhường.

Sự khiêm nhường là một yếu tố quan trọng để hoàn thiện nhân cách.

Nếu cha và mẹ là những người có tính khiêm nhường, họ sẽ dạy con biết khiêm nhường. Có nghĩa là khi cha mẹ biết kiểm điểm lại hành vi của bản thân thì con cũng sẽ nhìn theo và học được tính cách đó. Nếu năng lực tự kiểm điểm bản thân được nuôi dưỡng thì con sẽ tự nhiên phát triển được năng lực tự kiểm soát bản thân (như không thực hiện những hành vi xấu, cũng như không gây phiền hà cho người khác). Do đó, nếu những khuyết điểm của cha mẹ được con chỉ ra là thật, và cha mẹ cũng chấp nhận điều này thì đó gọi là thành thật. Thành thật là nói ra những khuyết điểm có thể thấy được ở bản thân. Nhờ vậy, ta mới nỗ lực để biến khuyết điểm trở nên nhỏ dần và biến mất.

Nếu nghĩ như vậy thì sự ngoan ngoãn, thành thật mà cha mẹ trông mong con mình có được sẽ khác hoàn toàn. Khi đó, sự ngoan ngoãn mà cha mẹ muốn ở con mình chẳng phải chỉ là sự phục tùng hay sao? Những đứa bé răm rắp nghe theo lời cha mẹ thì sự hình thành tính tự phát sẽ diễn ra chậm hơn, do đó khi đến tuổi dậy thì, khi con gặp khủng hoảng, con sẽ dễ dàng từ bỏ. Quá khứ của những đứa bé hay trốn học, bị rối loạn thần kinh chức năng,... mà cha mẹ đang phiền não hiện nay chính là những đứa con răm rắp nghe lời cha mẹ. Sự ngoan ngoãn đó chỉ như là một lớp sơn đẹp đẽ bề ngoài mà thôi. Chúng ta phải biết ơn những đứa bé biết cách nói lại cha mẹ như: “Mẹ cũng từng làm vỡ đồ giống con mà!”. Vì đó là biểu hiện cho tính tự phát ở trẻ, cho nên đó là một tín hiệu đáng mừng.

Vì vậy, khi con làm vỡ đồ, cha mẹ nên có thái độ như thế nào? Con sẽ cho rằng: “Thôi tiêu đời rồi!”, vì vậy cha mẹ nhất định đừng la mắng con. Cha mẹ hãy xem việc con làm vỡ đồ là một cơ hội để nhân đó mà hoàn thiện nhân cách của con.

Điều này cũng giống như những gì tôi đã trình bày, hãy cho con cơ hội được trải nghiệm những thất bại, nhất định đó sẽ là những bài học quý báu cho con. Để làm được điều đó, điều quan trọng nhất là hãy động viên con rằng: “Lần tới con hãy cố gắng cầm chắc hơn nha!”. Chính nhờ vào những lời động viên như vậy mà bản thân con sẽ quyết tâm: “Lần tới mình sẽ không làm rơi đồ nữa!”, cùng với đó là khái niệm chiến đấu với những khó khăn sẽ dần hình thành trong con.

Tuy nhiên, những nỗi bất an vẫn sẽ còn đọng lại mỗi khi con trót mắc sai lầm, cha mẹ đừng ép buộc con điều gì cả. Hãy dạy con rằng đó chỉ là cơ hội để bản thân con được trải nghiệm những thách thức mới. Thậm chí nói với con rằng cha mẹ cũng từng mắc sai lầm như thế và đã nỗ lực từ bỏ, khắc phục được các sai lầm đó như thế nào. Cha mẹ luôn là tấm gương đối với trẻ. Sự thẳng thắn chia sẻ, sự khiêm nhường và cảm thông của cha mẹ là động lực rất lớn cho trẻ lúc đó, giúp trẻ vượt qua cảm giác thất bại một cách dễ dàng. Trẻ sẽ nghĩ rằng cha mẹ cũng từng thất bại và đã vượt qua những sai lầm đó, thì tại sao mình không thể làm được.

Đối với những đứa trẻ lặp lại lỗi lầm của mình thì nỗi bất an đó lại càng đọng lại sâu hơn và ý chí chiến đấu ngày càng thụt lùi. Khi đó, dẫu cho người mẹ có động viên thế nào đi nữa thì cốt lõi là, mẹ phải nhẫn nại chờ đợi, đợi đến khi niềm hứng thú: “À! Mình muốn làm điều đó!” khơi dậy trong con.

Khi cha mẹ nhẫn nại chờ đợi, không ép buộc con thì niềm hứng thú của con nhất định sẽ được khơi dậy. Đó chính là cảm giác muốn thử thách tự bộc phát ở con. Hơn nữa, khi con vượt qua được những khó khăn, thách thức thì cảm giác sung sướng thỏa mãn sẽ đến với con: “A, mình làm được rồi!”. Cha mẹ cũng sẽ thấu hiểu được cảm giác của con, dang rộng đôi tay vui vẻ động viên con: “Đúng! Con đã làm được!”. Những lúc niềm vui nhân đôi chính là dịp để tình cảm giữa cha mẹ và con cái ngày càng khắng khít. Người mẹ sẽ dần tin tưởng con mình hơn, và để đáp lại sự tin tưởng của cha mẹ, con cái sẽ nỗ lực để hành động một cách có trách nhiệm hơn. Về vấn đề này, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa ở phần sau.

Nên giải quyết hậu quả khi con làm vỡ ly, bát như thế nào? Người mẹ vô tình sẽ nói với con bằng thái độ thờ ơ rằng: “Chính con làm vỡ thì tự dọn đi!”. Người mẹ trong cơn bực tức sẽ ra lệnh với con: “Con đi ra chỗ khác!” và tự mình nhanh chóng dọn dẹp hậu quả. Điều này sẽ tạo cảm giác bất mãn và thất bại ở trẻ, và cũng sẽ đẩy trẻ xa khỏi mẹ.

Có những bà mẹ tâm sự với tôi rằng nhiều khi họ không khống chế được cơn tức giận, nhất là đối với những người nóng tính, trong khi món đồ bị vỡ là món đồ họ yêu thích hoặc tốn rất nhiều tiền mới mua được. Vậy phải làm thế nào? Khi đó, người mẹ cần phải giữ bình tĩnh bằng cách hít thở sâu, tránh để cơn nóng giận bộc phát. Sau khi đã bình tĩnh hơn, người mẹ hãy nghĩ rằng bản thân mình cũng từng vụng về như thế, từng bị cha mẹ la mắng vì làm vỡ đồ, lúc ấy mình cũng mong được cha mẹ thông cảm. Hơn nữa, đồ vật đã vỡ cũng không thể gắn lại được và mình có thể sắm một món khác trong tương lai. Vậy trách con có ích gì khi càng đẩy con trẻ xa rời mình? Khi suy nghĩ như vậy, dần dần người mẹ sẽ học được cách giữ bình tĩnh và có thái độ cảm thông, bao dung hơn khi cư xử với con trẻ.

Mặt khác, chính lúc con làm vỡ đồ là thời điểm người mẹ có thể thể hiện tình yêu với con và tác động đến quá trình hình thành nhân cách của con một cách tích cực đấy! Tôi từng thấy một bà mẹ cư xử rất tuyệt khi con gái nhỏ của cô làm rơi chiếc bình thủy tinh mà cô rất yêu thích xuống đất. Khi đó, phản ứng đầu tiên của người mẹ này là: “Con đứng yên đó, để mẹ tìm đôi dép cho con mang vào, đừng đi lung tung nguy hiểm”. Sau đó, người mẹ chỉ con cách đi sao cho tránh những mảnh vụn rơi vỡ xung quanh cứa vào chân. Hành động đó cho thấy điều trước hết người mẹ quan tâm không phải là chiếc bình đã vỡ rồi mà là sự an toàn của con. Khi đặt sự an toàn của con lên trên tất cả thì chuyện cái bình đã vỡ không có ý nghĩa gì nữa. Đó là sự yêu thương của người mẹ dành cho con và tôi tin chắc đứa trẻ ấy sẽ vô cùng cảm động, cảm thấy yêu mẹ hơn vì mẹ đã cho chúng điểm tựa lúc chúng hoảng loạn nhất.

Người mẹ ấy cũng dạy con bằng cách cùng con lau dọn để chúng hiểu được khi đồ vật bị vỡ sẽ có nhiều mảnh vụn và nên dọn dẹp hậu quả như thế nào. Khi con được học những phương pháp đó thì bản thân con có thể tự dọn dẹp hậu quả ở những lần sau. Tóm lại, con sẽ biết cách xử lý tình huống khi đồ vật bị vỡ ngay cả những lúc không có mẹ hay bất kỳ người lớn nào ở đó.

Thời kỳ phản kháng thứ hai

Thời kỳ phản kháng nằm ở cuối giai đoạn phát triển của trẻ còn được gọi là thời kỳ phản kháng thứ hai – của tuổi dậy thì. Tuổi dậy thì là lúc con bắt đầu hình thành lối suy nghĩ cá nhân, về tính đúng sai của những vấn đề được dạy bởi cha mẹ, thầy cô, rồi bắt đầu nghi vấn, có thể nói tuổi dậy thì được ví von là tuổi thức tỉnh cái tôi của bản thân.

Khi con bắt đầu mang nghi vấn về cha mẹ, thầy cô thì trước tiên, con có thể sẽ bác bỏ toàn bộ những điều đã được chỉ dạy. Đặc biệt là những cảnh báo, những bài học từ cha mẹ và thầy cô – những giá trị vốn đã khắc sâu trong tâm thức của con. Con bắt đầu nhận ra rằng những giá trị đó chính là hình thức bên ngoài. Vì vậy, dù có bị cha mẹ nói gì đi nữa, con cũng sẽ bộc lộ thái độ phủ quyết một cách rõ ràng, có lúc giữ im lặng, có lúc sẽ nói là: “Ồn ào quá!” để phản kháng. Hãy thử đặt mình vào vị trí của người cha, người mẹ có đứa con như vậy, khi đó chúng ta có lẽ sẽ than vãn bất an, nhưng lo lắng cũng không giúp được gì. Cũng có thể nói đây là quá trình mài giũa ở giai đoạn cuối của tính tự phát.

Ở giai đoạn này, dù trẻ có phản kháng thế nào chăng nữa, cha mẹ hãy suy nghĩ cặn kẽ hành vi của con để hiểu được con. Hãy dùng thái độ bao dung và cảm thông khi nhìn nhận mọi hành vi phản kháng của con nhé và hãy đứng trên lập trường của con mà suy nghĩ. Có như vậy, tình cảm giữa cha mẹ và con cái mới càng khắng khít hơn, và con cái sẽ dễ dàng vượt qua thời kỳ phản kháng này nhờ sự yêu thương và cảm thông đó của cha mẹ.

Nếu vượt qua được thời kỳ phản kháng thì con sẽ có một tuổi thanh xuân tuyệt vời. Thanh xuân tuyệt vời ở đây mang ý nghĩa là được cha mẹ tin tưởng, được người khác tín nhiệm chứ không phải là được vào học một trường đại học danh tiếng nào đó. Một thời kỳ tuổi trẻ được gọi là thành công khi chúng ta tự tìm ra lối đi riêng của cuộc đời mình bằng nhiều phương hướng khác nhau, là khi chúng ta nỗ lực để hoàn thành công việc giúp ích cho xã hội ở nhiều lĩnh vực.

Thời kỳ phản kháng thứ hai còn được ví von là thời kỳ của “tinh thần cai sữa”. Trẻ lúc này sẽ mang tâm lý muốn tự lập. Cảm giác không muốn dựa dẫm vào cha mẹ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Điều này đương nhiên là do cái tôi đã thức tỉnh. Tuy nhiên, dù sao thì nếu không dựa vào cha mẹ, việc trang trải cuộc sống là không thể, đây cũng là lý do trẻ hay nổi cáu. Chuyện này nghiêm trọng đến mức đã có những học giả dùng cụm từ “thời kỳ sóng gió” để hình dung về nó. Cha mẹ đừng áp đặt suy nghĩ của mình lên con cái, thay vào đó hãy tin tưởng con và để con tự bước đi trên hành trình cuộc đời mình. Nếu cha mẹ bày tỏ điều này với trẻ thì sự phản kháng của trẻ với cha mẹ sẽ dần biến mất.

Chung quy lại, trẻ được cha mẹ tin tưởng sẽ phát triển với tinh thần trách nhiệm mạnh mẽ, không vấp ngã, luôn tìm kiếm lối đi riêng của cuộc đời mình. Vì vậy, cha mẹ hãy bảo vệ điều này vì con. Trẻ nhất định sẽ tìm ra hướng đi cho bản thân và phát huy được năng lực của mình.

Tuy nhiên, những năm gần đây có vấn đề nan giải là số lượng học sinh cấp hai, cấp ba rất thụ động ngày càng tăng lên. Niềm đam mê của các học sinh dần trở nên nghèo nàn. Ngay từ tiểu học, những trẻ này đã bị hình thành chủ nghĩa “năm không” nên mới dẫn đến tình trạng như hiện nay. Chủ nghĩa “năm không” là cụm từ để chỉ những trạng thái không sinh lực, không quan tâm, không cảm động, không trách nhiệm, không lễ phép. Những cái không đó xuất phát từ tình trạng trẻ lớn lên với tính tự phát chậm chạp. Cũng không nói quá nếu khẳng định nguyên nhân của vấn đề này là xuất phát từ cách giáo dục, dạy dỗ làm trẻ thụ động.

Vậy thì giáo dục, dạy con như thế nào sẽ cản trở sự phát triển tính tự phát của con, cũng như làm mai một dần tinh thần trách nhiệm của con? Có hai nguyên nhân chính giải thích cho điều này. Một là do những hành động mang tính mệnh lệnh, can thiệp, quản thúc của cha mẹ với con. Hai là xuất phát từ sự quan tâm thái quá. Khi cha mẹ cùng thực hiện những hành vi này thì tính tự phát của con sẽ càng đến trễ, con càng thụ động hơn.

Mệnh lệnh, can thiệp, quản thúc tức là những việc làm mà bậc cha mẹ có suy nghĩ vị kỷ sẽ áp đặt lên con vì muốn con ngoan hơn. Những giáo viên hay cha mẹ thường xuyên ra lệnh cho trẻ hoặc dùng cụm từ: “Con hãy làm cái này xem nào!”. Nếu đứa trẻ không làm theo ngay lập tức, họ sẽ la mắng, đánh đập và bắt trẻ phải làm. Tư tưởng con cái phải ngoan ngoãn vẫn đang hiện hữu ở một số gia đình, thầy cô tại nước Nhật. Những đứa trẻ chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng này phải nghe lời cha mẹ, thầy cô, hành xử như người lớn, tuân thủ lễ nghĩa. Nếu như vậy thì trẻ không thể nghịch ngợm, không được mạo hiểm, không thể phản kháng. Khi đó, những hành vi cần thiết để phát triển tính tự phát sẽ bị kiềm chế. Hơn nữa, đôi lúc trẻ sẽ to tiếng, bông đùa,… chỉ vì muốn bày tỏ một điều gì đó. Tuy nhiên, trẻ có thể bị la mắng vì người lớn sẽ cho rằng chỉ có những đứa trẻ không ngoan mới làm những điều này.

Vì lẽ đó, những đứa trẻ không biết quan tâm, không có hứng thú với bất kỳ điều gì sẽ không thể có một tâm hồn biết cảm thông, yêu thương, chia sẻ, năng lực chịu trách nhiệm cũng không phát triển. Đối với những bậc cha mẹ, thầy cô không quan tâm đến tính tự phát ở trẻ, cũng như không biết cách khơi dậy điều này, lúc đó họ sẽ khen những đứa trẻ luôn nghiêm túc làm theo lời mình như thế là ngoan ngoãn. Và những đứa trẻ khi được khen như vậy sẽ cảm thấy vui vẻ, đắc ý và theo đó, khái niệm như thế nào là trẻ ngoan cũng dần khắc sâu vào ý thức của trẻ. Cho nên trẻ sẽ khó mà thoát khỏi khuôn mẫu đã được hình thành từ trước đến nay.

Những đứa trẻ từ lúc tiểu học luôn nghe theo những câu mệnh lệnh của cô giáo như: “Im lặng!”... thì khi lên cấp hai, cấp ba, trẻ sẽ thường trốn học. Khi thử tìm hiểu chi tiết quá trình phát triển của những đứa trẻ như vậy, tôi phát hiện ra rằng chúng đều được cha mẹ, thầy cô khen ngợi vì không nghịch ngợm, không phản kháng, không gây gổ, luôn ngoan ngoãn nghe lời. Nhưng chúng ta không biết rằng tính tự phát của trẻ đang bị trễ. Có học giả dùng từ “chim trong giỏ vàng” để chỉ tình trạng của những đứa trẻ này. Bên ngoài thì lấp lánh vàng, nhưng chẳng phải là như con chim mất đi tự do không thể sải cánh hay sao?

Tự do là yếu tố cần thiết để tính tự phát được bộc lộ. Nếu chúng ta không cho trẻ tự do thì trẻ không thể bộc lộ tính tự phát và cũng không có mong muốn gì.

Khi đã không được trải nghiệm sự tự do khi còn trẻ và không hiểu tự do là gì thì người lớn sẽ khó trao sự tự do thực sự cho con cái họ. Kết quả là một vòng luẩn quẩn khi người lớn vì không trải qua cảm giác tự do nên sẽ áp đặt khuôn mẫu mà họ biết, tức nền giáo dục dựa trên khuôn khổ và phép tắc, lên con trẻ.

Tệ hơn nữa, sự hiểu lầm của những người này chính là sai lầm khi họ chối bỏ sự tự do. Vì họ cho rằng cho trẻ tự do chính là bỏ mặc trẻ. Việc bỏ bê, lơ là trẻ tuyệt đối sẽ không được tha thứ dù là khi nuôi dạy trẻ ở nhà hay giáo dục ở trường. Và điều này là nguyên nhân tạo nên những đứa trẻ phóng túng, bê tha. Những đứa trẻ này thường ích kỷ, không bao giờ suy nghĩ cho gia đình và mọi người, chỉ biết gây phiền phức cho người khác. Sau chiến tranh, chính vì hiểu sai ý nghĩa của hai chữ tự do của cha mẹ, thầy cô nên đã có rất nhiều trẻ lì lợm, không ngoan ngoãn vào thời kỳ này và đây cũng là điều dễ hiểu.

Vậy thì trao cho trẻ sự tự do trong giáo dục và nuôi dạy như thế nào thì tốt đây? Đó là cách giáo dục, nuôi dạy để trẻ sống một cách thoải mái, tự do và không nhắc nhở, không quá chăm bẵm trẻ. Nhìn trẻ lớn lên từng ngày, đột nhiên chúng ta sẽ muốn nhắc nhở con, muốn đưa đôi tay ra giúp đỡ. Tuy nhiên, những việc làm này sẽ khiến trẻ ỷ lại, dựa dẫm quá mức hoặc khiến trẻ cảm thấy ngột ngạt vì mất đi tự do, từ đó hình thành sự phản kháng dữ dội trong những thời kỳ sau.

Vì thế, nếu cha mẹ có thể lặng im quan sát con, cũng như âm thầm giúp đỡ con chỉ khi con thật sự cần giúp đỡ, đó chính là trao cho trẻ sự tự do đúng nghĩa. Vào những lúc như vậy, những bậc cha mẹ cần phải có tinh thần trách nhiệm cao. Có thể nói nếu cha mẹ không có trách nhiệm thì không thể cho con sự tự do đúng nghĩa. Ngược lại, những bậc cha mẹ, thầy cô với tinh thần trách nhiệm nghèo nàn sẽ dần khiến trẻ trở nên dựa dẫm hoặc trở nên nổi loạn.

Trao cho trẻ sự tự do còn đồng thời mang thông điệp là dạy cho trẻ tinh thần trách nhiệm. Vì vậy, cha mẹ và thầy cô cần xác nhận tinh thần trách nhiệm có đang phát triển ở mỗi trẻ hay không. Nếu trẻ cư xử như là một đứa bé lêu lổng thì cần chỉnh đốn lại vì trẻ đang bị bỏ bê.

Những người không lý giải được thế nào là tự do sẽ mặc định tự do là bỏ bê, nên lối suy nghĩ này đã làm cho những đứa trẻ trở nên không còn ngoan ngoãn. Đã có rất nhiều trẻ ngay từ mẫu giáo đã phải học những lễ nghi nghiêm khắc cũng vì chủ trương này. Những người chủ trương như vậy có suy nghĩ là sẽ giáo dục trẻ theo khuôn khổ duy nhất, tương tự nền giáo dục của các nước quân chủ. Chủ trương của họ chính là nguy cơ dẫn đến chiến tranh lần nữa.

Cha mẹ cần nỗ lực cho con sự tự do để con được phát triển thỏa thích. Nếu làm được điều này, những năng lực tiềm tàng của trẻ sẽ được phát huy. Những năng lực này trước đây chưa được tìm ra; tuy nhiên, nếu trẻ được tự do, tính tự phát của trẻ sẽ dần phát triển, những mong muốn cũng rõ ràng hơn, và khi đó năng lực của bản thân trẻ cũng sẽ phát triển. Nhờ vậy, trẻ sẽ luôn sống thật hoạt bát, vui vẻ.