-Khi đứa con đầu lòng của ông bà qua đời, rất nhiều gia đình khác cũng phải gánh chịu nỗi mất mát tương tự. – Lão Ưng nhớ lại. - Cơn đại dịch xuất phát từ vùng đồng bằng phía bắc rồi bất ngờ lây lan nhanh như một ngọn lửa đang phừng phực cháy trên thảo nguyên. Nó tấn công bộ tộc chúng ta và cả những người da trắng. Nhưng lúc đó mọi người đều sẵn sàng giúp đỡ nhau. Mọi người cùng chung tay an táng những người xấu số và cùng khóc thương cho họ. Khi ấy, cha mẹ của ông bà đã khuyên ông bà hãy gắng sống cho mỗi ngày trước mắt và đừng lo lắng về ngày mai. Ngày đã qua không thể thay đổi được, và ngày chưa tới vẫn là một ngày cần phải sống cho hết mình.
Vì lẽ đó mà ông bà đã cố gắng từng ngày, và rồi cũng đến lúc ông bà có thể nghĩ về con trai mà không phải khóc nữa. Ta luôn cảm nhận được nỗi buồn nhưng nhờ nó mà ta cũng sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
"Trở nên mạnh mẽ nghĩa là cố lên đến đỉnh đồi dù cháu đã hoàn toàn kiệt sức."
Có tiếng bước chân rất khẽ. Jeremy quay đầu lại. Bà Diều Hâu đang tiến đến chỗ họ với một bình cà phê mới pha. Bà rót cho mỗi người một tách rồi cùng tham gia câu chuyện của hai ông cháu dưới gốc cây dương.
- Bà có một câu chuyện này… – Bà chậm rãi cất tiếng. Tóc bà trắng như tuyết và trên gương mặt bà in rõ dấu vết thời gian. Cái nhìn lấp lánh trong ánh mắt bà luôn khiến Jeremy cảm thấy mình quan trọng.
- Trước đây bà đã nhiều lần nói với cháu là ông của cháu hơn bà cả mười tuổi đúng không? Thế nhưng có lẽ cháu không biết là cuộc hôn nhân của ông bà là một cuộc hôn nhân có sự sắp đặt. - Bà Diều Hâu bắt đầu câu chuyện.
Jeremy lấy làm ngạc nhiên trước điều mình vừa nghe và không khỏi tò mò trước nụ cười bí hiểm của bà.
- Ồ, bà nói thật đấy! Mẹ của bà đã nói chuyện với mẹ của ông và họ đã hứa hẹn với nhau. Dĩ nhiên trước đó bà đã có dịp gặp ông cháu rồi nhưng nói chuyện thì chưa. Nguyên cớ của sự sắp đặt này rất đơn giản. Bà ra đời khi mẹ bà đã hơn bốn mươi tuổi và cha bà mất trong một vụ tai nạn. Mẹ bà sợ nếu mình có mệnh hệ gì, bà sẽ cô độc trên thế gian này.
Mẹ bà đã biết ông cháu từ khi ông còn nhỏ. Ông cũng mồ côi cha từ khi còn bé. Mẹ ông tái giá nhưng người bố dượng cũng qua đời sau đó vài năm. Rồi mẹ của ông bị mù, ông của cháu đã tận tình chăm sóc cho bà ấy. Mẹ của bà chợt nhận ra ông cháu là một người mạnh mẽ, và cũng thật ân cần. Đó là lý do mẹ của bà đã đến gặp mẹ của ông để nói chuyện.
Nhưng đây mới là câu chuyện bà muốn kể cho cháu nghe.
***
Ngày xưa, bộ tộc chúng ta có một thiếu nữ được ba người đàn ông kiên trì theo đuổi và cô không thể quyết định nên chọn người nào. Vì thế, cha của cô đã nghĩ ra một kế để thử thách các chàng trai, nhằm xem ai là người thực sự xứng đáng với con gái mình.
Gần ngôi làng có một ngọn đồi cao và một con dốc rất dài dẫn lên tới đỉnh. Người cha yêu cầu các chàng trai phải chạy lên đỉnh đồi rồi chạy xuống bảy lần và họ phải thực hiện việc đó trong một đêm mưa lạnh giá. Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc đua và trên đỉnh đồi sẽ có ba vị bô lão ngồi đợi sẵn để đếm số lần các chàng trai chạy lên đến đỉnh.
Rồi một ngày nọ, sau khi trời đổ mưa to và con dốc dài trở nên hết sức nguy hiểm, họ đã bắt đầu cuộc thi. Thật không dễ dàng gì khi phải chạy giữa bùn đất lầy lội, nhưng các chàng trai vẫn cố gắng. Lần thứ ba lên được đến đỉnh đồi thì khắp người họ dính đầy bùn đất do té ngã. Lần thứ năm thì tất cả họ phải chống tay và đầu gối xuống đất mà bò trên phần lớn đoạn đường. Đến lần thứ sáu và lần thứ bảy thì họ chỉ còn di chuyển được nhờ vào sức mạnh ý chí mà thôi.
Họ đã leo dốc đủ bảy lần và đều lên đến tận cùng con dốc nên dường như việc ai xứng đáng để cưới cô gái trẻ vẫn còn là một dấu chấm hỏi. Các chàng trai ngã quỵ và tin rằng mình đã làm tất cả những gì cha cô gái yêu cầu. Thế nhưng ông vẫn còn một yêu cầu nữa; ông đã yêu cầu các chàng trai phải leo lên con dốc ấy một lần nữa.
Ngay lúc đó, hai trong số ba chàng trai cực kỳ giận dữ. "Tôi không thể đi thêm được nữa." – Một người phản đối. "Tôi kiệt sức lắm rồi!" – Người thứ hai đồng tình. Hai người họ chẳng ai đi được thêm một bước nào nữa lên đồi. Người thứ ba chẳng khá hơn là bao; dẫu vậy, anh vẫn ráng thêm một bước nữa trước khi ngã úp mặt xuống đường.
Những người đứng chung quanh theo dõi cuộc tranh tài đã dìu các chàng trai mệt lả vào lều nghỉ ngơi. Sáng hôm sau, khi vừa thức giấc, cả ba chàng trai đều nghĩ rằng mình đã thua cuộc. Đến trưa, cha cô gái đã cử một người đưa tin đến lều của chàng trai thứ ba.
Người cha đã chọn chàng trai thứ ba vì anh biết dựa vào sức mạnh tinh thần để cố gắng, dẫu cho anh chỉ có thể bước thêm một bước và ngã xuống đất. Ông biết rằng chàng trai đó sẽ có đủ sức mạnh để làm trụ cột trong gia đình, là một người chồng tốt của con gái của ông.
- Mẹ của bà đã kể cho bà nghe câu chuyện đó khi bà hỏi mẹ sao lại chọn ông cháu cho bà. Và bà chưa bao giờ hối hận về cuộc hôn nhân sắp đặt ngày trước, bởi lẽ như cháu thấy đó, càng đi xa trong chuyến du hành cuộc sống này, chúng ta càng biết được rằng có nhiều cách để trở nên mạnh mẽ. Cơ thể, đầu óc và tinh thần chúng ta tất cả đều trở nên mạnh mẽ.
Ở tuổi thanh xuân, ta thường quan trọng sức mạnh cơ bắp. Ta cho rằng ai đó chỉ mạnh khi họ có khả năng đi nhanh hơn, xa hơn và cao hơn. Chúng ta giải quyết vấn đề bằng cách chôn vùi nó hoặc bỏ mặc nó. Nhưng đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ nhận ra mình không thể cứ mãi như vậy.
Cuối cùng chúng ta bàng hoàng nhận ra rằng mình không thể đi nhanh, đi xa hoặc lên cao được như thế. Từ đó chúng ta hiểu được chân giá trị của việc sử dụng trí tuệ và khả năng tư duy. Chúng ta xem xét một vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau và bắt đầu nhận ra rằng kiến thức chính là nguồn sức mạnh vô hạn. Nguồn sức mạnh ấy cứ ngày một tăng thêm, không hề có sự giới hạn.
Với một kho tàng kiến thức, chúng ta bắt đầu khát khao sự thông thái. Bởi sự thông thái mở ra cho ta thêm nhiều điều mới lạ nữa nên ta sẽ nhận ra rằng mình vừa chạm đến sức mạnh tối thượng của bản thân. Cũng giống như kiến thức, sự thông thái sẽ không ngừng tăng thêm.
Nếu kiến thức là sức mạnh của đầu óc thì sự thông thái là sức mạnh của tâm hồn.
Nói rồi Bà Diều Hâu cất bước đi vào, gót giày bà sủi lên một đám bụi nhỏ trong mớ cỏ.
Lão Ưng mỉm cười. – Ông chưa bao giờ được nghe câu chuyện về ba anh chàng đó cả. - Ông thú nhận. - Nhưng ông tin là cháu biết bà cháu nói đúng về việc sức mạnh sẽ thay đổi như thế nào khi chúng ta thực hiện cuộc hành trình cuộc sống của mình. Và ông muốn nói thêm với cháu điều này.
Nếu tại một thời điểm nào đó của cuộc hành trình ta có tìm thấy sức mạnh của mình đi chăng nữa thì cũng không thể xem sức mạnh đó là rào chắn an toàn, bởi thử thách luôn bị ném bất ngờ vào con đường ta đi.
Dù là thử thách hay chướng ngại gì đi nữa, chúng ta vẫn không được rời mắt khỏi đỉnh đồi. Hãy luôn nhớ rằng phía trên cao kia luôn có một điều thú vị đang chờ đợi ta khám phá. Và để vươn đến được tầm cao đó, ta buộc phải nỗ lực và gắng sức hết mức.
- Ông ơi, thế ông đã bao giờ bỏ cuộc trước bất cứ việc gì chưa ạ?
- Có chứ.
Jeremy không khỏi ngạc nhiên. Anh không thể nhớ nổi bất kỳ chuyện gì chứng tỏ ông của anh đã đầu hàng trước điều gì đó. – Thật sự cháu không thể nhớ là ông đã từng bỏ cuộc đấy. Nhưng nếu đúng là ông từng có lần bỏ cuộc thì lý do tại sao thế ạ?
- Vì nản lòng. - Người ông đáp ngay lập tức. - Con người ta có thể bỏ cuộc chỉ vì cảm giác chán nản, mỏi mệt và kiệt quệ.
Đôi khi trên chặng đường ta đi, có những khoảnh khắc buộc ta phải lựa chọn, giống như cháu bây giờ vậy. Khi ấy, chúng ta phải nhắc nhở bản thân rằng chính vì đã lựa chọn nên chúng ta mới đang hiện diện tại đây, ngay lúc này. Và hãy nhớ rằng bỏ cuộc cũng là một lựa chọn.
Hãy luôn động viên bản thân mình gắng thêm một bước nữa, dù cho bước chân ấy có nhỏ nhoi, chậm chạp hoặc đau đớn thế nào đi nữa. Ta phải mang theo suy nghĩ đó vào cuộc hành trình, cho chính bản thân ta.
"… Nghĩa là để cho nước mắt xóa nhòa nỗi đau…"
- Ông nghĩ một trong những sức mạnh vĩ đại nhất của bộ tộc chúng ta là biết mỉm cười. – Lão Ưng tự hào. – Có những lúc mỉm cười chính là cách duy nhất để đối mặt với những điều đặc biệt khó khăn. Nụ cười giúp ta vơi bớt đớn đau, cảm nhận và vượt qua thử thách một cách nhẹ nhàng và dễ dàng hơn. Khi mỉm cười, ta sẽ thấy tâm hồn mình như được nâng đỡ, nhưng nên nhớ rằng nước mắt mới chính là thứ giúp ta xóa sạch những đau đớn muộn phiền. Chỉ khi nước mắt được tự do tuôn rơi thì nỗi đau mới thật sự tan biến một cách nhẹ nhàng.
Mẹ ông từng kể một câu chuyện về hai chị em nọ, sau khi trở thành góa phụ thì đã dọn về sống cùng nhau mãi cho đến khi người chị già yếu và ngã bệnh. Người em gái đã thức trắng bên giường bệnh của chị cho đến khi người chị lịm dần đi. Rồi bà bắt đầu than khóc, nức nở. Tiếng khóc của nỗi đau đớn thẳm sâu từ tận đáy lòng bao trùm khắp gian phòng. Những người có mặt trong gian phòng cũng không kiềm được nước mắt.
Một lúc sau, mọi người thôi không than khóc nữa. Nhiều người có mặt trong gian phòng đã đến ôm lấy người phụ nữ đau khổ ấy và lau nước mắt cho bà.
Mẹ ông còn kể nhiều điều về hai chị em góa phụ đó. Họ rất hay cười. Nhưng họ cũng biết khóc. Và cháu biết không, trong cuộc đời chúng ta phải có cả hai điều đó.
Cách đây không lâu, cậu của cháu đã nghe được một câu chuyện về một nhóm bạn thân. Họ đều là những người hài hước, có lối sống thực tế nhưng cũng rất quan tâm đến nhau.
***
Một ngày nọ, cả nhóm quyết định thành lập "Quỹ cho người sống sót"; họ gọi tên cái quỹ đó như vậy. Hằng năm, các thành viên trong nhóm sẽ góp tiền vào quỹ với mục đích là thành viên nào sống lâu nhất sẽ được hưởng số tiền đó và tự do tiêu xài. Mọi việc cứ diễn ra như thế. Năm này qua năm khác mỗi người đều góp phần tiền của mình vào quỹ, đến khi họ trở nên già yếu, rồi từng người một lần lượt qua đời. Cuối cùng, nhóm bạn chỉ còn lại hai người và họ trêu chọc nhau về việc sẽ tiêu xài số tiền đó như thế nào.
- Anh sẽ làm gì nếu anh là người ở lại? – Một người hỏi người kia.
Người kia suy nghĩ trong chốc lát và bảo:
- Mai mốt tôi sẽ kể anh nghe.
Thật không may vì người đàn ông ấy đã qua đời trước khi kịp kể cho người bạn nghe dự định của mình.
Một đám tang linh đình đã diễn ra với một chiếc quan tài dát vàng và một bữa tiệc xa xỉ cho tất cả những vị khách đến viếng. Để bày tỏ sự tôn trọng đối với người đã khuất, người sống sót cuối cùng đợi thêm vài ngày nữa rồi mới đến ngân hàng để nhận phần thưởng của mình. Anh chưa thể quyết định liệu sẽ dùng số tiền đó để chu du đến một vùng đất xinh đẹp nào đấy hay mua một chiếc thuyền đánh cá. Nhưng đến khi biết ra thì chẳng dự định nào thực hiện được cả. Không có lấy một xu trong hộp tiền tiết kiệm tại ngân hàng, chỉ có một mảnh giấy ghi chú của người đàn ông vừa qua đời.
Mảnh giấy viết rằng: "Tôi đã suy nghĩ nhiều và tôi muốn có một đám tang tốt nhất mà tiền bạc có thể mua được".
Jeremy không khỏi cười thầm: – Nhưng ông ơi, chúng ta cười nhạo cái chết như vậy liệu có nên không?
- Ông thấy không sao cả. – Lão Ưng trả lời. – Cái chết cười nhạo ta; vậy tại sao chúng ta lại không được làm điều tương tự?
- Cháu chợt nhớ tới câu chuyện về một vị tù trưởng mà ông đã từng kể cho cháu nghe. Có vẻ như ông ấy khá coi trọng cái chết.
- À, để ông xem ông có còn nhớ câu chuyện ấy không, để rồi xem ông ấy có thực sự như vậy không nhé. Ông nghĩ đó là câu chuyện của tộc người Celts. Câu chuyện là như thế này.
***
Trên một vùng đất ở bên kia đại dương, có một vị tù trưởng đồng thời cũng là một chiến binh đang chầm chậm rảo bước giữa bãi chiến trường. Dù ông và binh lính của mình vừa thắng trận vẻ vang nhưng ông bước đi đầy nghiêm nghị. Mỗi khi đến bên cạnh xác chết của những binh lính đã tử trận của mình, ông ngừng lại, nhẹ nhàng phủi sạch bụi và những vụn đất ra khỏi gương mặt của người lính, rồi ông bật khóc.
Sau đó ông cùng những binh lính sống sót mang xác của những đồng đội đã tử trận trở về.
Năm tháng trôi qua, càng ngày càng có nhiều người đi theo vị tù trưởng đó bởi họ biết rằng ông ấy là một vị thủ lĩnh can trường và tử tế. Và do ông có khả năng phán đoán tốt nên cũng ít có thương vong xảy ra đối với binh lính của ông.
Sự quả cảm và khả năng phán đoán của ông không chỉ khiến người ta tìm đến với ông mà còn thôi thúc họ đi theo ông đến bất cứ nơi nào ông dẫn lối.
Họ còn đi theo ông vì ông biết khóc thương cho từng chiến binh ngã xuống trên chiến trường.
Jeremy suy ngẫm về câu chuyện một lúc lâu rồi nói: – Vậy có lẽ không phải ông ấy xem trọng cái chết đến mức như thế mà chính là ông muốn vinh danh những chiến binh của mình bằng cách khóc thương cho họ.
- Ông nghĩ cháu nói đúng đấy. – Lão Ưng gật gù tán đồng. – Đau khổ và để mặc cho nước mắt tuôn trào là cách tốt nhất giúp chúng ta chấp nhận cái chết. Đó là một cách để vinh danh và tiễn người ra đi về thế giới tâm linh, và nó giúp cho những người ở lại tiếp tục cuộc sống.
"Nghĩa là luôn tiếp tục tìm kiếm câu trả lời dù bóng tối tuyệt vọng đang bủa vây quanh cháu."
- Cháu biết không, có rất nhiều thứ khác ngoài cái chết có thể lấy đi ý chí sinh tồn của chúng ta. - Người ông trầm ngâm. - Ví dụ như sự tuyệt vọng, bởi không có gì có thể khiến chúng ta suy sụp nhanh hơn cảm giác mất hết hy vọng. Sự mệt mỏi có thể tấn công cơ thể chúng ta, nhưng sự tuyệt vọng lại nhắm vào tâm hồn chúng ta.
Thế nhưng ông có thể đảm bảo với cháu điều này: Người nào không đầu hàng tuyệt vọng thì cũng sẽ bị thất bại làm cho nhụt chí. Ông nghĩ đây là lúc thích hợp để kể cho cháu nghe câu chuyện về hai chàng trai trẻ đi tìm đá nhưng lại tìm thấy một thứ khác.
***
Hai chàng thanh niên khởi hành từ vùng thảo nguyên để đi về phía tây rồi vào sâu trong những rặng núi cao đầy nguy hiểm. Họ lên đường tìm kiếm một loại đá đen theo lời chỉ đường của những người đã từng lùng sục loại đá ấy.
Loại đá đen ấy được rất nhiều người thèm muốn bởi khi chúng được mài thành dao, giáo hay đầu mũi tên thì chúng sẽ giữ được độ sắc bén lâu hơn bất cứ loại đá nào khác. Thế nhưng loại đá này chỉ có ở một bên sườn núi của rặng núi nằm phía bắc vùng đất có nham thạch sôi ùng ục và nguồn nước nóng phun thẳng lên trời. Sườn núi đó nằm sâu bên trong lãnh thổ của một quốc gia mà những người trên thảo nguyên này chưa từng biết đến. Đã có rất nhiều người từng đi tìm đá đen và không bao giờ trở về. Đó thực sự là một cuộc hành trình cực kỳ nguy hiểm.
Đêm trước khi hai chàng trai trẻ lên đường, một vị bô lão trong làng đã cảnh báo rằng có rất nhiều hiểm nguy đang chờ đợi họ trên chặng đường phía trước. Lời cảnh báo này khiến hai chàng trai vốn là hai anh em ruột cảm thấy rất bối rối. Nhưng họ vẫn quyết tâm lên đường.
Mất một tháng họ mới lên đến ngọn núi. Đến khi họ tìm được phía sườn núi có loại đá đen quý hiếm kia thì cũng sắp hết mùa hè. Mỗi người nhặt một túi đầy đá đen rồi dựng một túp lều kín đáo để nghỉ ngơi và chuẩn bị cho cuộc hành trình trở về nhà. Nhưng những rắc rối mà họ đã cố gắng tránh trên chặng đường đi đang chờ đợi họ trên chặng đường về.
Đầu tiên là một con gấu khổng lồ bất ngờ tấn công họ trên đoạn đường mòn trên núi. Lối thoát duy nhất của anh em họ lúc bấy giờ là chạy thật nhanh xuống núi. Cuối cùng họ cũng thoát thân sau khi cậu em làm mất chiếc túi chứa đầy đá và cả vũ khí của mình. Tiếp đến là một cơn lũ bất ngờ ập tới ngay một khe suối hẹp trên núi nơi hai anh em đang trú thân. Họ phải trèo lên một cây thông rất cao để tránh lũ.
Đến khi họ ra khỏi dãy núi thì mùa hè cũng vừa tàn và nhanh chóng sang thu. Trên trời, đàn ngỗng trắng xám từ phương bắc đang bay về phương nam tránh rét.
Một ngày kia, khi họ đang săn bắn thì bị các chiến binh của quốc gia thù địch phát hiện. Họ chỉ còn biết chạy trốn thật nhanh khỏi kẻ thù. Nhưng sau nhiều ngày trốn chạy không ngừng nghỉ, họ vừa kiệt sức vừa mệt lả vì đói. Mùa thu năm ấy, những cơn gió lạnh đến sớm hơn thường lệ và khi đêm đến thì cái lạnh như dao cứa vào da thịt. Những lúc may mắn, anh em họ tìm được một cái hang hoặc một khúc cây rỗng ruột để ngủ qua đêm, nhưng phần lớn thời gian họ phải ngủ ngoài trời giữa thời tiết khắc nghiệt.
Dẫu khó khăn là thế nhưng họ vẫn tiếp tục và sau nhiều ngày trốn chạy đến mức mấy đôi giày da của họ rách bươm, cuối cùng họ cũng thoát khỏi vòng vây kẻ thù.
Một buổi trưa nọ, khi đang dừng chân nghỉ ngơi, người anh chỉ tay về phía tây và nói: – Có người đang bám theo chúng ta.
Người em cứ nhìn đi nhìn lại phía ấy rất nhiều lần, nhưng anh không thấy ai cả. Dẫu vậy anh vẫn tin tưởng anh trai mình vì trước giờ anh ấy chưa bao giờ nói dối anh.
- Mình phải nhanh lên! – Người anh nói. – Thấy không! Đằng kia kìa! Hắn đang bám theo chúng ta!
Người em nhìn thật kỹ nhưng vẫn không thấy gì. Cả hai lại tiếp tục cuộc hành trình trở về nhà, cảm giác được gặp lại gia đình và ngôi lều êm ấm khiến họ nhớ mong đến khắc khoải. Dù họ là những thanh niên tráng kiện và mạnh mẽ nhưng sau nhiều ngày không có gì bỏ bụng, không được nghỉ ngơi, sức lực của họ gần như cạn kiệt. Họ không thể nhấc chân lên nổi nữa nếu không được nghỉ ngơi.
- Đằng kia kìa! – Người anh đột nhiên la to. – Hắn đến gần ta hơn rồi! Chúng ta phải chạy trốn trước khi hắn bắt kịp.
Dù không thấy gì nhưng cậu em trai vẫn gượng dậy chạy theo vì hoảng sợ khi thấy sắc mặt thất thần của anh trai. Người em từ trước đến giờ chưa từng chứng kiến anh mình đầu hàng bất kỳ nỗi sợ nào.
Thế là dẫu cho mệt mỏi và kiệt sức đến thế nào chăng nữa, hai anh em vẫn quáng quàng chạy và cứ chạy mãi đến khi họ không thể chạy tiếp được nữa, cuối cùng họ ngã quỵ ngay trong đêm. Người anh cuộn tròn người lại như quả banh đằng sau một cái cây và thút thít khóc.
- Hắn vẫn đang đến đấy! Nghe anh đi!
Nỗi sợ hãi hoàn toàn bủa vây lấy anh đến mức anh đã nài nỉ em mình đừng đốt lửa dù họ cần lửa để sưởi ấm.
- Hắn sẽ nhìn thấy chúng ta mất! – Anh rên rỉ.
Mỗi tiếng động trong đêm đều khiến người anh ti tỉ khóc và trốn kỹ hơn nữa. Anh lượm đá, cành cây và ném vào kẻ thù mà anh cho rằng chúng đang nấp trong bóng tối.
Cuối cùng sự kiệt sức đã khiến cả hai ngủ thiếp đi, thế nhưng khi mặt trời vừa ló dạng thì người anh lại khóc rống lên.
- Nhìn kìa! Hắn đã lớn hơn; hắn đã to hơn!
Người em phải cố gắng hết sức mới theo kịp vì người anh bỏ chạy với nỗi sợ hãi đang ngày một tăng thêm. Cuối cùng, khi người anh thật sự gục ngã và không thể nhấc chân lên nổi nữa thì anh ta tiếp tục bò, vừa bò vừa khóc trong sợ hãi. Tay và đầu gối anh bị xây xước và rỉ máu. Nhưng anh cứ nhìn về phía sau với nỗi sợ hãi tột độ còn gương mặt anh ta thì rúm ró lại.
Trong khi đó cậu em trai vẫn không nhìn thấy gì cả.
Sau nhiều ngày trốn chạy vì sợ hãi, đến lúc thậm chí nỗi sợ cũng không thể khiến người anh nhúc nhích, anh ngã phịch xuống và toàn thân run lẩy bẩy, nhìn trừng trừng vào kẻ thù mà chỉ mỗi mình anh nhìn thấy. Ngón tay anh vẫn run run chỉ vào khoảng không, ngay cả khi mắt anh ta đảo tròng và ngất đi vì kiệt sức.
- Hắn sẽ giết cả hai ta! – Anh cảnh báo. – Hắn là một gã khổng lồ!
Người em trai cũng đang mệt lả sắp ngất đi, đưa tay dụi mắt và ra sức tìm kiếm gã khổng lồ mà anh mình nói.
- Đằng kia kìa! – Người anh vừa khóc vừa chỉ vào một điểm.
Khi cậu em quay sang, anh nhìn thấy một cái bóng lờ mờ đang tiến đến. Dù nó không phải là một gã khổng lồ nhưng cũng là một cái gì đó rất đáng sợ. Anh định lùi lại thủ thế nhưng thay vì vậy, một điều gì đó trong anh thôi thúc anh tiến tới đối mặt với cái bóng mờ kia. Có điều gì đó mách bảo anh rằng cái bóng kia có thể sẽ biến thành một gã khổng lồ thực sự.
- Không! – Anh thét lớn. – Cút đi! Ta biết ngươi là cái gì rồi! Cút đi! – Anh thọc tay vào túi và lấy hết viên đá này đến viên đá khác ném về phía cái bóng. Mỗi lần anh ném đá thì cái bóng ấy lại nhỏ đi, đến khi nó mờ dần và mất hẳn. Thế nhưng chàng trai trẻ đã ném hết số đá đen. Dù anh có nhặt lại được một ít nhưng anh biết dân làng sẽ rất thất vọng vì họ đã để mất gần hết số đá tìm được.
Anh loạng choạng lê bước đi lượm củi về nhóm lửa. Phải cố gắng lắm anh mới điều khiển được mấy ngón tay để đánh đá lửa và thổi cho tia lửa ngún bùng lên thành một ngọn lửa nhỏ lập lòe.
Khi ngọn lửa đã cháy đều, anh lôi người anh đến gần đống lửa để giữ ấm. Anh ngủ thiếp đi. Anh đã biết điều gì đeo bám họ, và anh cũng biết nó sẽ không bao giờ trở lại.
Khi cậu em thức dậy, bóng đêm đã bao trùm lấy họ. Đống lửa chỉ còn một chút tro tàn cháy âm ỉ. Anh thêm củi và cời cho lửa cháy. Đêm đó anh thức trắng và liên tục thêm củi vào đám lửa để giữ ấm cho anh em họ. Khi bình minh đến, anh tìm thấy một dòng suối và uống cho thỏa cơn khát.
May mắn thay, cuối cùng các chàng trai cũng trở về được lãnh thổ của mình. Họ dựng lều nghỉ ngơi trong nhiều ngày. Vì mệt lả và còn hoảng sợ nên người anh cứ ngủ chập chờn; trong khi đó người em tiếp tục xoay xở và bẫy được một con thỏ. Anh nướng thỏ và hai anh em cùng ăn, chút thức ăn ít ỏi đó đã giúp họ phục hồi sức lực.
Một buổi trưa người anh giật mình thức dậy. Mắt anh lại long lên hoang dại và đầy sợ hãi.
- Gã khổng lồ đi rồi. – Cậu em trấn an anh mình. – Hắn đã đi rồi. Em đã đuổi hắn đi.
- Làm sao em biết? – Người anh hỏi, giọng vẫn còn hoảng loạn.
- Gã khổng lồ ấy xuất hiện vì nỗi sợ của chúng ta đã tạo ra hắn. – Cậu em trả lời. – Chính chúng ta đã tạo ra hắn.
- Nhưng em đã đuổi hắn đi bằng cách nào? - Người anh thắc mắc.
- Em đã ném những viên đá đen vào hắn, mỗi lần ném em hy vọng hắn sẽ bỏ đi, và hắn đi thật. Còn bây giờ, còn một ít thịt đây, anh ăn đi. Em sẽ đi săn thêm, rồi ta sẽ ăn cho khỏe lại và hoàn tất cuộc hành trình.
Và rồi cuối cùng họ cũng về được đến nhà sau gần hai tháng gian nan. Sau mấy ngày nghỉ ngơi, anh em họ tìm đến lều của vị trưởng lão và kể cho ông nghe về cuộc hành trình của họ, trao cho ông một nắm đá đen mà họ đã cố giữ lại được. Họ sẵn sàng chịu sự trừng phạt vì đã không hoàn thành nhiệm vụ.
- Các cháu đã mang về được một ít đá, đó là điều rất tốt. Nhưng ta muốn các cháu biết rằng phần thưởng quý giá cho chuyến đi này không phải là một túi đầy đá mà chính là những gì các cháu đã nhìn thấy và vượt qua được.
"Trở nên mạnh mẽ nghĩa là vẫn nuôi hy vọng rằng con tim sẽ đập thêm một nhịp, rằng lại thấy bình minh…"
- Chúng ta ai cũng sẽ gặp những khoảnh khắc như thế trong cuộc đời như hai anh em trong câu chuyện vừa rồi vậy. - Lão Ưng nói. - Nhưng cháu hãy nhớ rằng, trong sự im lặng sau mỗi nhịp đập, cuộc sống sẽ gom góp sức mạnh cho nhịp đập tiếp theo. Khi nỗi thất vọng bóp nghẹt ta, đó là lúc ta phải hy vọng. Đó là lúc ta gom góp sức mạnh của chính mình.
- Sao chúng ta phải làm thế ạ? - Jeremy thắc mắc.
- Bởi vì hy vọng là một trong những tia sáng mà nhờ đó cuộc sống được duy trì. - Lão Ưng giải thích.
- Biết hy vọng là một trong những món quà to lớn nhất của cuộc sống. Thời khắc mà chúng ta hy vọng mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp, đó cũng là lúc chúng ta có thể hoàn thành những gì đã đặt ra, chúng ta gần như đoan chắc được rằng mình sẽ đạt được kết quả như mong muốn. Ít nhất thì điều đó cũng có lợi cho chúng ta.
Hy vọng không dành riêng cho ai cả. Chúng ta toàn quyền sử dụng nó trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Những nô lệ hy vọng có được tự do còn người giàu hy vọng được hạnh phúc. Thế nhưng hy vọng thường là bạn đồng hành của những người bị khinh rẻ. Nó trú ngụ trong trái tim và khối óc của những ai đã từng mất mát hay trải qua những bi kịch cuộc đời, hay của bất kỳ ai mà con đường họ đi dường như khó khăn gian khổ hơn bình thường. Nói cách khác, tất cả chúng ta ai cũng từng rơi vào một hoàn cảnh hoặc một tình huống mà ta hy vọng có một chỗ trú thân tránh giá rét, hy vọng tự do để hết đớn đau, hy vọng trút bỏ được gánh nặng, hoặc mong có thêm một cơ hội nữa, một cơ hội để sữa chữa lỗi lầm.
Không ai dám chắc rằng hy vọng sẽ mang đến điều mình mong muốn. Những nô lệ có thể không có được tự do và người giàu sẽ không tìm được hạnh phúc nhưng nếu ta không biết hoặc không thể hy vọng thì chúng ta đã vô tình khiến những khó khăn của mình thêm chồng chất.
Người anh trong câu chuyện về những viên đá đã sẵn sàng cuộn mình như một quả banh và bỏ cuộc nhưng người em đã tìm thấy tia hy vọng. Mỗi người trong chúng ta cũng giống như hai anh em đó. Một phần trong chúng ta nhượng bộ nỗi tuyệt vọng nhưng phần khác lại không ngừng hy vọng.
Dù có bất kỳ điều gì xảy ra, hãy giữ mãi niềm hy vọng, cháu trai à! Hãy tự nhủ với bản thân rằng mình sẽ lại thấy bình minh, và cả những cơ hội, chính niềm hy vọng sẽ giúp cháu nhận ra điều đó.
"Mỗi bước đi, dù khó khăn đến đâu, vẫn là một bước nữa lên đến đỉnh đồi …"
Lão Ưng chỉ tay vào một ụ đất nhỏ mọc giữa thảo nguyên. - Từ chỗ này đến ụ đất đó cháu phải bước bao nhiêu bước chân? - Người ông hỏi.
Chàng trai cố ước chừng khoảng cách và cuối cùng đành lắc đầu chịu thua.
- Cháu không biết, ông ạ, có lẽ là phải cả ngàn bước chân. - Anh nói.
- Bao nhiêu bước chân thật ra cũng không quan trọng. - Người ông gợi ý. - Điều quan trọng hơn cả là cháu phải dám bước đi. Ngoài ra, hãy cho ông biết điều nào sau đây là quan trọng hơn: bước đầu tiên cháu hướng đến ngọn đồi đó hay là bước chân cuối cùng lên đến đỉnh?
- Chà. - Jeremy ậm ừ. - Ông luôn bảo rằng việc hoàn thành những gì mình đã khởi sự là điều quan trọng. Thế nên cả bước đầu tiên và bước cuối cùng đều quan trọng như nhau.
- Có lẽ thế. Thế nhưng trong cuộc hành trình còn nhiều thứ khác nữa ngoài bước đầu tiên và bước cuối cùng. Cháu có nghĩ về điều đó không? Những bước ở giữa thì sao? Còn ‘bước kế tiếp’ nữa chứ?
- ‘Bước kế tiếp’ ư? Ý ông là sao ạ? - Jeremy hỏi.
- Giả sử thế này cho dễ hiểu nhé. Cháu phải bước mười ngàn bước mới lên đến đỉnh ngọn đồi đó, nhưng nếu cháu sải chân dài hơn thì mất ít bước hơn. Và nếu sải chân ngắn hơn thì cần nhiều bước hơn.
- Ông muốn nói đến điều gì vậy ông?
- Điều gì quan trọng hơn? Sải chân của cháu - dài hoặc ngắn - hay là số bước chân? Hay là cháu cứ cắm cúi bước, hết bước này đến bước khác? - Người ông ngừng một chút để cháu mình suy nghĩ.
- Theo cháu thì điều quan trọng là mình cứ đi hết bước này đến bước khác bất kể dài ngắn thế nào. - Jeremy dứt khoát.
- Đó chính là cách chúng ta đi đến khắp mọi nơi, băng qua một vùng đất hoặc tiến đến một mục tiêu mà ta muốn đạt được. – Lão Ưng khẳng định. – Hy vọng là thế đấy. Nó thúc đẩy nỗ lực và thậm chí có thể khơi dậy nỗ lực đó trong ta. Hy vọng cho ta sức mạnh tiến lên phía trước và bước thêm một bước nữa.
Một bước đó thôi sẽ đưa ta vượt xa khỏi nơi mình đang đứng, đến một nơi nào đó, đến bất cứ đâu, chỉ cần tiến về phía trước, dù khoảng cách chỉ là đường tơ kẽ tóc hay cả một sải tay đều không quan trọng.
Việc vượt qua khó khăn, trở ngại không phải chỉ cần một lần mà thành công. Một chuỗi những thắng lợi nhỏ, những bước chân ngắn, cũng sẽ đưa đến một kết quả tương tự. Lên đỉnh đồi thì không cần nhảy phóc một phát hoặc tính toán số lượng bước chân. Cái chính là lên được đến đỉnh đồi bằng mọi cách.
Hy vọng là thêm một bước chân, thêm một viên đá. Nhiều năm về trước, ông có đọc được một câu chuyện thế này:
***
Ở bên kia đại dương, có một ngôi làng nằm nép mình dưới chân núi dọc theo một con sông. Người dân trong thung lũng phát đạt nhờ mối quan hệ làm ăn với nông dân làng láng giềng. Họ trồng vô khối lúa mì, rồi nghiền lúa mì thành bột bằng máy xay bột của làng. Đá mài của máy xay chuyển động nhờ vào sức nước từ con sông, khi sức nước làm bánh xe quay thì sẽ quay cối đá. Sau đó dân làng và nông dân đem bột bán cho giới thương buôn khắp vùng.
Mùa xuân nọ trời đột nhiên đổ mưa nhiều hơn bình thường, và dân làng thấy mực nước sông dần dần dâng lên. Nếu không ngớt, mưa sẽ sinh lũ lụt, nước lũ sẽ quét qua cánh đồng lúa mì và rồi sẽ không còn lúa mì đâu để xay mà bán.
Trời cứ mưa, hội đồng làng cùng các nhà nông và cư dân trong thung lũng đứng nhìn con sông ngày càng dâng lên trong vô vọng. Hội trường làng chật kín người từ khắp thung lũng đến để bàn về cơn lũ sắp tới. Nông dân ai ai cũng lo mất phương kế sinh nhai, nhiều người dân còn sợ rằng mọi người sẽ mất nhà cửa nếu mưa vẫn không dứt. Ai trong phòng họp mặt cũng muốn hội đồng làng đưa ra giải pháp tức thì.
Giữa lúc cuộc thảo luận đang sục sôi, một bà cụ với mái tóc trắng như tuyết bước vào và chầm chậm đi đến trước mọi người. Dù xiêm y giản dị nhưng tướng mạo bà lão lại khá nổi bật. Thế nhưng đó không phải là điều thu hút mọi ánh mắt trong phòng, mà chính viên đá to bà đang cầm trong tay mới khiến người ta phải chú ý.
Trước giờ chưa ai từng nhìn thấy bà cụ này và mọi người bắt đầu xôn xao bàn tán không biết tại sao bà lại mang viên đá to như thế vào đây. Rồi đám đông bỗng im phăng phắc. Khi bà phát biểu, giọng nói dịu dàng của bà lan tỏa khắp mọi ngóc ngách của gian phòng.
- Thung lũng này đông dân lắm. - Bà bắt đầu. - Nếu mỗi người đều đi đến chân núi và mang về hòn đá to nhất tương ứng với sức mình thì chắc chắn ta sẽ chuyển được dòng nước lũ sang hướng khác. Hãy xếp đá thành hàng trên bờ sông, bắt đầu từ điểm thấp nhất, và sau đó càng cao càng tốt.
Vừa dứt lời, bà lão tóc bạc phơ mang theo viên đá rời khỏi hội trường rồi đặt nó cạnh bờ sông. Sau đó, bà đi về miền cao.
Vài người buông lời chế giễu bà cụ. Song, nhiều người lại thấy được cái lý của lời bà. Thế là không lâu sau mọi người đổ xô đến chân núi để mang đá về đặt dọc theo bờ sông. Già trẻ, khỏe yếu, mọi người đi thành hàng dài, có những người còn khuân đá về thành nhiều lượt. Thế nhưng số người còn lại vẫn không tin chắc rằng chồng đá lên như thế là biện pháp có thể thay đổi tình thế, nên họ về nhà đóng hành lý để chuẩn bị di tản trước khi nước sông dâng lên. Khi hoàng hôn buông xuống thì đã có rất nhiều người rời khỏi thung lũng. Còn những ai nghe theo lời khuyên của bà lão kia thì vẫn tiếp tục mang đá về, bằng tay hoặc bằng xe kéo. Dần dần, hàng trăm, hàng ngàn viên đá chất dọc theo bờ sông đã tạo thành một con đê kiên cố.
Mưa vẫn không ngừng rơi và nước sông cũng từ từ dâng cao rồi vỗ mạnh vào đê đá. Khi mưa càng ngày càng lớn, vài người đã bỏ cuộc và tháo chạy như những người khác. Những ai kiên định thì lại càng làm việc chăm chỉ hơn để hoàn thành con đê. Họ đến chân núi và cố gắng mang về càng nhiều đá càng tốt.
Tuy họ đã rất nỗ lực và can đảm tiếp tục công việc dựng đê, nhưng con đê không đủ cao để chắn hết lượng nước tràn vào. Thế nhưng thật may là nó vẫn đủ sức để giảm phần nào tác hại của cơn lũ. Mặc dù vài cánh đồng bị nhấn chìm trong lũ và mực nước đã chạm đến rìa của ngôi làng, nhưng hầu hết các cánh đồng lúa mì vẫn không bị ảnh hưởng và nhiều ngôi nhà cũng không bị lũ nhấn chìm. Dần dần mưa cũng ngừng rơi và nước sông cũng không dâng lên nữa.
Lúc này, hội đồng làng muốn cảm ơn bà cụ tóc bạc kia vì lời khuyên hữu ích của bà, nhưng kỳ lạ thay, những sứ giả làng cử đến vùng thượng không cách nào tìm được bà cụ. Từ dạo đó, không một ai nhìn thấy bà nữa.
Để kỷ niệm sự thoát hiểm thần kỳ khỏi cơn lũ dữ, mọi người quyết định giữ nguyên hiện trạng của con đê làm bằng đá ấy. Vài người có ý muốn nâng cấp và gia cố nó vì họ sợ sau này mưa sẽ lại khiến nước sông dâng lên thành lũ. Thế nhưng để ghi nhớ việc họ đã tự cứu mình thoát khỏi đại nạn, họ đã cho dựng một đài kỷ niệm trong quảng trường ngay trung tâm của làng.
Đó là một công trình kiến trúc đơn giản, không có gì hơn ngoài một thanh gỗ lớn được đặt hướng lên trời.
Ở mặt bên trong của thanh gỗ là gương mặt của một bà lão được chạm khắc tinh tế và phía trên đỉnh của thanh gỗ là một viên đá lấy từ con đê.
Jeremy gật đầu. Anh chàng cũng từng đọc câu chuyện này rồi. "Viên đá ở trên đỉnh của thanh gỗ đại diện cho hy vọng." - Anh nhủ thầm.
- Dĩ nhiên là một viên đá thôi thì không thể ngăn nổi cơn lũ nhấn chìm thung lũng, nhưng nhiều thật nhiều viên đá thì lại được. Nhưng phải có viên đá đầu tiên trước đã.
Hy vọng cũng tương tự thế. Mỗi lúc một hòn đá, một lúc một bước chân, bất kể viên đá ấy lớn bé cỡ nào hoặc bước chân đó dễ dàng hay khó khăn thế nào.
- Thế nhưng không phải tất cả mọi người trong làng đều hăng say giúp đỡ. Nhiều người đã bỏ đi. - Jeremy nhắc nhở ông mình. – Phải chăng những người đó thấy vô vọng khi chống chọi với cơn lũ không ông?
- Có lẽ thế. - Người ông đáp lời. - Ông nghĩ giữa hy vọng và vô vọng có một miền đất trung gian. Từ miền đất đó có hai con đường cho người ta lựa chọn. Trong câu chuyện vừa rồi, những ai trốn chạy thì thấy rằng đó là cách duy nhất để cứu lấy thân, còn những ai ở lại và kiên trì xây đê thì thấy rằng đó là cách để cứu mọi thứ. Sẽ luôn có những người trong chúng ta đầu hàng tuyệt vọng và cũng sẽ luôn có những người để cho niềm hy vọng dẫn lối. Riêng ông thì tin rằng hy vọng sẽ tạo nên sự khác biệt.
"Chừng nào trái tim còn đập thì ta còn giữ cho niềm hy vọng sống mãi, điều đó sẽ đưa ta đến với ánh bình minh và hứa hẹn về một ngày mới."
- Đến một lúc nào đó, tất cả chúng ta rồi sẽ biết rằng cuộc sống không hề dễ dàng. – Lão Ưng nói tiếp. – Nhưng biết sớm dù sao cũng tốt hơn là biết quá muộn.
Jeremy im lặng tỏ ý đồng tình. Trước khi cha anh mất, anh đã rất chật vật. Khi ấy anh vẫn đang trả nợ sinh viên ở trường đại học, và mặc dù anh rất muốn nộp đơn thi tốt nghiệp nhưng anh không chắc mình có thể trang trải thêm hai năm học nữa hay không. Một trường trung học ở Alaska đã tuyển anh vào dạy và mức lương gần như gấp đôi mức lương hiện tại, thế nhưng sinh hoạt phí ở đó lại cao hơn và anh cũng không chắc mình có nỡ sống quá xa nhà và cha mẹ hay không.
- Mặt khác, nếu ta chưa từng nếm mùi tranh đấu hoặc chẳng gặp chướng ngại gì trên đường đời thì bất kể điều gì ta đạt được - giàu sang phú quý, địa vị xã hội, đạt được một danh hiệu nào đó, hay bất cứ điều gì khác - ta cũng cảm thấy dường như không có giá trị. Nếu ta không biết đến đấu tranh, ta sẽ không thể học được giá trị của niềm hy vọng.
Từ khi thế giới này được hình thành, mặt trời đã và sẽ luôn luôn mọc và lặn theo chu kỳ đều đặn của tự nhiên, một vòng tuần hoàn ta có thể lấy làm cột mốc. Không một ai trên trái đất này biết được họ sẽ còn sống được bao nhiêu ngày nữa. Ta chỉ cần biết rằng mỗi ngày đều có thể là một cơ hội mới. Làm gì với cơ hội đó là tùy thuộc vào mỗi chúng ta.
Thời gian có thể là gánh nặng, cũng có thể là một món quà, như anh họ của cháu đã nghiệm ra được sau khi trở về sau cuộc chiến ở xứ người.
Nó đã sống qua các cuộc chiến ác liệt không tưởng và đã chứng kiến sự xấu xa tàn bạo đến khốc liệt của chiến tranh, và từng giây từng phút nó đều tự hỏi tại sao nó lại sống sót trong khi những đồng đội của nó đều đã hy sinh. Nó không những bị cảm giác tội lỗi giày vò mà còn không ngừng đặt nghi vấn về tính xác đáng của những giá trị mà nó đã được truyền dạy khi còn bé, đặc biệt là những điều liên quan đến tính thiêng liêng quý giá của mạng sống con người.
Tâm trí của anh cháu bị ký ức gợi lên những mùi vị, âm thanh, hình ảnh của chiến tranh oanh tạc triền miên. Đêm đến nó sợ ngủ đến phát khiếp vì những cơn ác mộng về cảnh chiến trường đổ máu cứ hiện lên như thật. Rượu chè trở thành thứ để giải khuây, vì rượu làm tê đi cái cảm giác tội lỗi của kẻ sống sót và đôi lúc làm dịu những khía cạnh lởm chởm gai góc của ký ức và mộng mị không yên bình đang dằn vặt nó từng ngày.
Sau nhiều tháng sống trong tội lỗi, đau khổ và tuyệt vọng, nó đã nghĩ đến việc tự kết liễu đời mình. Nhưng một đêm nọ, nó choàng tỉnh khi đang nằm trên sàn nhà của cha mẹ trong cảnh nửa tỉnh nửa say mà không biết mình làm thế nào lại đến được đây. Lúc bấy giờ ngồi cạnh nó trên sàn nhà là mẹ nó, tức vợ của chú cháu. Bà cầm một chiếc khăn ướt rồi nhẹ nhàng chậm từng giọt mồ hôi trên mặt anh cháu. Cử chỉ dịu dàng ấy cuối cùng đã phá vỡ được bức tường mà chàng trai đã dựng lên bấy lâu nay bằng thịnh nộ và thái độ phủ nhận sự thật, và rồi nó bật khóc. Nó khóc nức nở và thú nhận với mẹ rằng mình không thể đối mặt với những hình ảnh trong ký ức về đồng đội của nó.
Khi anh họ cháu đã khóc đến cạn khô nước mắt thì cô cháu đã ôm lấy gương mặt con và nói:
"Con đừng quay lưng với những gương mặt đó. Hãy để chúng len lỏi vào tâm trí con. Hãy cất giữ hình ảnh của họ trong trái tim con. Họ là bạn, là đồng đội của con. Tất cả các con đã cùng nhau sẻ chia nhiều thứ, từ điều tốt, điều xấu đến điều không thể mở lời nói ra. Bất kể tim mẹ có đau đớn vì con như thế nào chăng nữa thì mẹ vẫn không bao giờ biết được con đã chứng kiến hay chịu đựng những gì. Họ đến với con vì có lẽ con là mối liên kết duy nhất họ còn để lại trên thế gian này. Hãy nói với họ hiện tại cuộc sống của con đang khó khăn như thế nào; rồi họ sẽ hiểu. Sau đó hãy sống một cuộc đời thật ý nghĩa vì họ cũng như vì chính bản thân con. Hãy trân trọng món quà mà con được tặng, món quà mà những người bạn đó của con sẽ nhận ngay nếu được tạo hóa ban cho lần nữa.
Con không thể thay đổi quá khứ được, nhưng con có thể khiến cho ngày mai dễ dàng hơn bằng cách cố gắng sống cuộc sống hôm nay thật tốt. Khi mặt trời ló dạng, hãy đứng lên, dang rộng đôi vai và ngẩng cao đầu hiên ngang chào đón những gì sắp đến. Con không phải một mình đối mặt với đời đâu, vì các bạn của con sẽ luôn ở bên con trong từng bước đi".
- Trong những tháng ngày sau cái đêm định mệnh ấy, anh họ của cháu đã ghi nhớ hết những lời khuyên của mẹ mình và nhất mực nghe theo. Nó không còn lo lắng xem điều gì sẽ đón chờ mình nữa. Điều tốt nhất nó có thể làm là hy vọng và nguyện cầu được thêm sức mạnh để có thể sống tốt khi có chuyện không hay bất ngờ ập đến.
Con đường đời không dễ đi chút nào nhưng nó biết chắc mình đang đi đâu. Về sau, vào một đêm khi anh cháu chuẩn bị đi ngủ thì nó nhận ra rằng nó thực sự háo hức mong chờ ngày mới đến như thế nào, và đó cũng là lần đầu tiên trong suốt nhiều năm anh cháu muốn được sống và hy vọng vào tương lai. Sau giây phút đó, nó xem mỗi một ngày mới như một lời hứa hẹn rằng cuộc sống sẽ luôn đầy bất ngờ thú vị.
Có lần anh cháu còn nói với ông rằng nó đã biết cách hy vọng. Mẹ của anh cháu đã dạy nó hiểu rằng mỗi một ngày mới đều đáng để sống.
Ông nghĩ là cô cháu còn dạy con trai mình một điều khác nữa kia. Đó chính là nếu ai biết giữ cho đốm lửa hy vọng đừng tắt thì sẽ biết cách bước tiếp trên con đường đời.