Chúng tôi đã đến một hang động, cửa hang gần như bị khuất trong đám lá khô và tuyết. Không nói một lời nào, chúng tôi xông tới, kéo những cành khô để mở lối và dùng tay bốc tuyết. Đây là cuộc đua với thời tiết, vì cứ mỗi chút tuyết được chúng tôi hất đi thì lại bị cơn gió không khoan nhượng trả lại nhiều hơn.
Những ngón tay tôi tê đi và lưng đau, nhưng tôi không ngừng lại tới khi mở đủ lối cho ngựa vào. Hector rút kiếm và biến mất vào trong. Một lát sau anh quay lại. “An toàn!” Anh nói lớn.
Lối vào hang thấp, mấp mô và tối om, Ngựa hí lên. Tôi thơm mũi nó và thì thầm, “Mày là con ngựa ngu ngốc nhất trần đời à? Đúng, đúng thế đấy!” Tai nó dựng lên, lỗ mũi phình ra, và nó theo tôi vào trong.
Bên trong hang rộng vừa đủ cho tất cả chúng tôi. Ở giữa là một hố nhóm lửa từ lâu, nhưng khi tuyết rơi dày bịt kín mọi khe nứt, chúng tôi sẽ phải cẩn thận. Những hõm vách đá xa xa là những nơi nghỉ ngơi. Chúng chứa một cái nồi sắt nhỏ, mấy bộ dao kéo đã hỏng, hai cái cốc gỗ mẻ và một bó củi khô.
Chúng tôi dẫn lũ ngựa đi sâu vào trong hang, nơi hang động rẽ qua một gờ đá và mở ra một cái hang nhỏ hơn. Cái này vừa đủ cao cho lũ ngựa đứng thoải mái. Một chồng cỏ khô nho nhỏ nằm ở một bên tường. Với đó và một ít ngũ cốc còn thừa, chúng tôi có đủ lương thực cho chúng trong một hoặc hai ngày.
Mara nhận việc nhóm lửa, và chẳng mấy chốc hang động đã tắm trong ánh sáng ấm áp vui tươi. Trần hang quá thấp, người quá đông, và chúng tôi có lẽ sẽ sớm cạn kiệt lương thực. Nhưng chúng tôi vẫn cười nhẹ nhõm với nhau trong khi mở hành lí và xếp túi ngủ quanh đống lửa trại.
Belén đứng gác lối vào hang, cầm theo thanh gỗ dài anh đã kéo theo, và bây giờ thì tôi đã hiểu lí do. Bão tuyết đã mạnh lên. Đến khi đêm xuống, tuyết sẽ bịt kín lối vào mất.
“Chúng ta phải thay phiên canh gác lối vào,” anh nói. “Mở một cái lỗ cho khói bay ra. Nếu không chúng ta sẽ chết ngạt.”
Chúng tôi bỏ qua bữa trưa, vì không ai muốn đợi một bữa ăn nóng. Nhưng Mara bắt chúng tôi phải ăn chút gì cho ấm bụng trước khi đi ngủ. Thế là chúng tôi ăn quả sung khô, bánh mì, phô mai và cô đun nước pha trà lá thông.
Tôi thấy no nê và ấm áp khi Hector đứng lên duỗi tay chân. “Tôi đi kiểm tra ngựa đây,” anh nói, đoạn quay sang tôi. “Em có muốn học cách đánh bóng yên ngựa không?”
Tôi đột nhiên thấy khó thở, vì biết rõ anh đang nghĩ gì. “Được,” tôi bật ra.
Tôi liếc thấy Mara mỉm cười khi tôi đứng dậy, theo Hector đi sâu vào trong hang và vòng qua gờ đá.
Tay anh ôm eo tôi, kéo tôi vào bóng tối.
Tôi dựa cả vào anh. Môi anh áp lên môi tôi, đặt một nụ hôn tuyệt vọng, giận dữ. Tôi đáp lại bằng cách ùa hết bao nhiêu thất vọng và lo lắng suốt mấy tuần qua vào vòng ôm của chúng tôi, vuốt ve cánh tay anh, vai anh. Những ngón tay tôi đan vào tóc anh trong khi tôi tự trấn an mình rằng anh ở đây, và anh là của tôi.
Tay anh lần vào trong áo tôi, vuốt ve lưng tôi. Môi tôi rời khỏi môi anh, hôn theo quai hàm về phía tai, rồi tôi thì thầm, “Em vẫn dùng hạt trinh nữ.”
Hơi thở anh giật cục, rồi anh vùi mặt vào cổ tôi một lát. Tim anh cũng đang đập loạn nhịp như tim tôi.
Cuối cùng anh nói, “Em có chắc chắn không, Elisa?”
Tôi thấy ngạc nhiên và bối rối vì sau mọi chuyện, anh vẫn có thể có một chút không chắc chắn về tình cảm của tôi. “Đây là một trong số ít điều mà em chắc chắn.”
Anh ngẩng đầu và trầm ngâm nhìn tôi. Sau đó anh dùng ngón tay cái giữ cằm và hôn tôi – một nụ hôn ngọt ngào hơn, dịu nhẹ hơn, giống như mặt trời ló ra từ rặng mây.
Bụng tôi râm ran khi tôi áp trán vào trán anh, nói rằng, “Em đã nói là anh sẽ còn hôn em mà.”
Anh bật cười. “Đó là phần ‘thêm nữa’ mà tôi nhớ rõ nhất.” Anh nhẹ nhàng đẩy tôi ra, để có một khoảng an toàn giữa hai chúng tôi. Anh cầm đôi tay tôi đưa lên môi. “Khi chúng ta tới Basajuan, có lẽ tôi có thể giữ em cho riêng mình một lúc.”
Mặt đất hơi chao đảo.
“Còn bây giờ,” anh nói thêm, “tôi thật sự nên dạy em cách chăm sóc yên ngựa. Tôi cần làm gì đó để xao lãng.”
Tôi cười toét miệng. “Ý hay đấy.”
Bão quần thảo suốt đêm đến sáng. Sau bữa sáng là đậu hầm và bánh quy cứng nhúng trà, chúng tôi tụ tập bên đống lửa để đánh giá lại tình cảnh của mình.
“Chúng ta còn bao nhiêu thức ăn nữa?” Hector hỏi khi đang mài dao. Dường như anh luôn làm gì đó để bảo dưỡng vũ khí. Có lẽ tôi nên theo gương anh.
“Một túi hạt ngô khô, hai túi ngũ cốc – chúng ta nên giữ nó cho lũ ngựa,” Mara nói. “Một ít chà là. Một ổ phô mai. Thịt khô cho một ngày. Tôi có thể tiết kiệm thịt bằng cách nấu xúp. Nhưng tôi đã hết bột mì mất rồi.”
“Cô có thể dùng cùi vỏ thông thay cho bột mì,” Hector nói.
“Chúng ta có thể thịt một con ngựa,” Belén chỉ ra.
Bụng tôi quặn lại vì ý nghĩ đó, nhưng tôi nói, “Chúng ta cũng gần hết ngũ cốc và cũng không thể cho chúng ăn no được nữa.”
“Thịt con gì cũng sẽ bảo quản được vài ngày trong nhiệt độ này,” Mara nói.
“Em từng ăn thịt ngựa rồi,” La nói. “Có vị như thịt chó ấy.”
“Có lẽ còn ít cỏ hoặc cây bụi bị vùi dưới tuyết bên ngoài kia,” Hector nói. “Nhưng đừng ai liều ra ngoài trước khi bão tan. Và nếu cần ra ngoài thì phải thắt dây thừng. Không có ngoại lệ nào hết.”
Tất cả chúng tôi đều gật đầu nhất trí.
“Elisa này?” Bão nói. “Nếu trời quang thì sao? Sau đó chúng ta sẽ làm gì?”
Em gái Bão gật đầu khi ông nói. “Con đường giờ đã bị tuyết che mất rồi,” cô bổ sung. “Không còn đường nữa.”
Tôi quay sang. “Vậy thì chúng ta sẽ tự tạo đường cho mình,” tôi gắt. “Bão và tôi, bằng Thánh thạch.”
Cô mở miệng định nói gì đó nhưng lại đổi ý.
“Tôi không chắc sẽ thành công,” Hector nói.
“Vì sao?”
“Bất cứ thứ gì em rã đông sẽ đóng băng lại ngay trong nhiệt độ này. Kể cả đám ngựa núi của chúng ta cũng không thể đi trên đường đóng băng. Nhất là trên dốc.”
Những vách đá khép lại xung quanh tôi, bóng tối sục sôi trong tâm can tôi. Tôi không thể bỏ cuộc. Tôi không tin rằng sau tất cả những gì đã vượt qua, mọi thứ tôi bắt bạn bè mình vượt qua, tôi lại bị đánh bại bởi cái thời tiết khỉ gió này. Hoặc có thể đây không phải “cái thời tiết khỉ gió.” Cái lạnh buốt hiếm có, cảm giác như mù lòa giữa trận dông tuyết trắng xóa, tất cả đều là vì Lucero và thảm họa núi lửa phun trào do ông ta tạo ra. “Phải có cách. Phải có chứ.”
“Các Phán vương có lẽ cũng bị cản bước,” Belén nói. “Hoặc nghĩ lạc quan hơn, có thể họ đã chết.”
Bão chú mục vào anh. “Anh tin vậy thật hả? Hay anh chỉ nói dối để an ủi Elisa? Tôi chịu không phân biệt được.” Rồi ông nói với tôi, “Các Phán vương cách chúng ta ít nhất một ngày đường. Bão đến từ đằng sau chúng ta, nên tôi chắc chắn họ đã vào Joya d’Arena trước khi bão đến. Có lẽ hiện giờ họ đang đi theo hướng bắc đến Basajuan rồi.”
Mọi người trầm ngâm suy nghĩ. Một con ngựa khịt mũi và đống lửa nổ lốp bốp bắn một hòn than đỏ gần mũi giày tôi. Nó lóe lên rồi tắt ngóm.
“Có lẽ chúng ta sẽ gặp may,” Mara nói. “Có lẽ bão sẽ sớm tan và thời tiết sẽ ấm hơn.”
“Có lẽ,” Belén nói, nhưng giọng nhuốm chút ngờ vực.
Tôi ngồi bó gối và gục trán xuống. Tôi lẩm bẩm, “Nếu các Phán vương tới Basajuan trước, họ sẽ phá hủy và dùng nó làm căn cứ cho một cuộc tấn công còn lớn hơn trước, nhắm vào Orovalle và Joya d’Arena. Chúng ta sẽ mất tất cả.” Và mất mọi người.
“Chúng ta phải lo cho sự sống của mình trước,” Hector nói. Tôi luôn thích sự thực tế, thẳng thắn của anh. Nhưng bây giờ tôi không thể kìm cảm giác bực bội xuống.
“Em muốn các ý tưởng, Hector. Các giải pháp.”
“Sự an toàn của em là ưu tiên hàng đầu của tôi,” anh nói, vẫn nghiêm nghị như cũ. “Và tôi sẽ không để em chết đói trong hang hay chết cóng trên đường. Nếu những ngọn núi này vẫn không thể vượt qua, chúng ta phải tính đến việc lui về Umbra de Deus ngay khi bão tan.”
Tôi ngẩng lên lườm anh. “Bảo vệ một nữ hoàng để làm gì nếu không còn gì cho cô ta trị vì nữa?”
Ánh lửa phủ những bóng đen lên mặt anh và tạo ánh đỏ lóng lánh trên mái tóc đen, khiến anh trông dữ dội hơn bao giờ hết. Nhẹ nhàng, anh nói, “Em thực lòng nghĩ tôi luôn muốn bảo vệ em chỉ vì em là nữ hoàng? Đến giờ chắc chắn em phải hiểu rõ rồi chứ.”
Mơ hồ, tôi ý thức được mọi người khẽ nhúc nhích một cách khó chịu, vì cơn bão thổi hắt gió vào hang khiến ngọn lửa nhảy múa điên cuồng. Nhưng tôi không thể rời mắt khỏi anh. Tôi biết anh đang nghĩ gì. Tôi có thể từ bỏ tất cả. Tôi có thể đợi qua mùa đông và sau đó lui về sống ẩn dật ở một nơi xa xôi hết cuộc đời. Tất cả những gì tôi phải làm để sống sót là tránh nguy hiểm. Và Hector sẽ ở bên tôi.
Tôi đã chuẩn bị tinh thần để hi sinh vì dân vì nước. Nhưng chỉ khi điều đó được đền đáp. Tôi chưa từng tin vào cái chết vô ích. Đến lúc nào tình huống của ta tuyệt vọng đến mức tiếp tục cuộc chiến là vô nghĩa nhỉ?
Chúa ơi, con phải làm gì đây?
“Tôi có một ý,” Thác nói.
Chúng tôi tất thảy đều quay lại nhìn cô.
“Những hầm mỏ,” cô nói.
Bão nhíu mày nhìn em gái. “Mệnh lệnh em nhận được là giết tất cả chúng ta hả? Dù điều đó có nghĩa là hi sinh tính mạng của mình?”
“Không! Tất nhiên là không. Em không chối rằng những hầm mỏ đó nguy hiểm chết người. Nhưng chúng sẽ bảo vệ ta khỏi thời tiết và cái lạnh. Chúng ta có thể đi nửa đường tới Basajuan qua các địa đạo. Bão sẽ tan vào lúc chúng ta ra ngoài.”
“Bão,” Hector nói rằng giọng nghe như tiếng gầm. “Hãy cho chúng tôi biết về những hầm mỏ. Hãy cho chúng tôi biết mọi điều ông biết. Không được bỏ sót một chi tiết nào.”
Bão nhìn tôi, và tôi nhướng mày với ông. Ông phải quen nhận lệnh từ Hector.
Ông thở dài. “Mọi người có lẽ đã nhận thấy,” ông nói, “rằng những nơi chứa nhiều sức mạnh thường ở trong lòng đất – hoặc ít nhất gần một nguồn dẫn tới lòng đất, như các núi lửa chẳng hạn. Người Invierno có một niềm tin cố hữu rằng càng vào sâu trong lòng đất thì càng tiếp cận hơn với zafira.”
Tôi gật đầu. “Tiếp đi.”
“Hàng ngàn năm trước, khi dân tộc cô từ trên trời rơi xuống và bắt đầu tái tạo thế giới này bằng những cỗ máy ma thuật, tổ tiên của tôi đã bỏ chạy đến đây, tới vùng núi. Nhưng chúng tôi bị cô lập khỏi nguồn sức mạnh. Sau vài thế hệ, chúng tôi yếu dần. Chết dần. Một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất, Bụi Mâm Xôi Còi Cọc Xấu Xí Chở Che Suối Dồi Dào, thuyết phục cả nước đào xuống lòng đất càng sâu càng xa càng tốt. Ngài tin – tất cả chúng tôi đều tin – rằng nếu đào xuống đủ sâu, chúng tôi có thể tìm đến zafira. Tự tạo ra nguồn sức mạnh cho mình.”
“Thế là dân tộc ông đào hầm xuyên núi,” Hector nói.
“Đúng. Suốt nhiều thế hệ. Đó là một nỗi ám ảnh của cả quốc gia. Chúng tôi dùng các hang động thiên tạo làm điểm khởi đầu rồi đào và đào. Chuyện các địa đạo bị sập là không thể tránh khỏi. Nhiều lần lở đất. Một số đào trúng đá nền. Khi ấy, chúng tôi sẽ rẽ sang hướng khác và thử tiếp.
“Nhưng có quá nhiều người chết, một số trong các vụ sập hầm, số khác do hít phải khí độc, bị lạc và ngã chết. Những người khác chẳng may trúng phải thạch hỏa của người thú. Kế hoạch không còn được ủng hộ nữa. Nó làm tốn quá nhiều người và của. Khi chúng tôi phát hiện ra cứ một trăm năm lại có một người Joya được sinh ra sở hữu Thánh thạch của Chúa, và chúng tôi có thể dùng họ làm nguồn dẫn, chuyện này dừng hẳn.
“Các địa đạo vẫn mở trong một thế kỉ tiếp theo; chúng dần trở thành những hầm mỏ bình thường. Chúng tôi tìm thấy vàng, bạc và đá quý. Nhưng các ngọn núi cho thấy dấu hiệu đã cạn kiệt khoáng sản khi có những tin đồn lạ lùng bắt đầu lan ra. Những thợ mỏ đi vào và không ai còn thấy họ nữa. Có báo cáo về những tiếng động lạ, ánh sáng lạ. Và khi một vụ sập hầm mỏ giết chết bốn mươi thợ mỏ, các địa đạo đã bị niêm phong mãi mãi.”
Gió đã ngừng. Lửa bốc lên cao, thẳng và mạnh lạ lùng. Những bóng đen hắt lên tường không còn chập chờn nhiều khi gió chẳng còn lùa vào qua cửa hang. Tôi ngẩng đầu, nghĩ có lẽ bão đã ngừng, nhưng không. Tuyết đã chặn lối thoát của chúng tôi.
Belén bật dậy, cầm cây gậy và chọc lên trần hang. Tuyết đổ xuống người anh, nhưng anh cứ tiếp tục cho tới khi gió lại thổi trên đầu tôi và lửa tiếp tục bập bùng.
Tôi lại quay sang Bão. “Nhưng chúng ta vẫn có thể vào những địa đạo đó chứ?” Tôi nói. “Chúng ta có thể đi qua đó không?”
“Không,” ông nói, đúng lúc Thác bảo, “Được.”
Cả hai lườm nhau.
“Chúng không an toàn,” Bão nói. “Chúng cũ quá rồi. Các cột gỗ chống giờ chắc đã mục ruỗng hết. Rất nhiều địa đạo bị ngập nước. Và dưới đó có gì đó. Tôi đoán đó là một loại sinh vật cổ xưa, có từ thời trước khi dân tộc cô đến thế giới này.”
Thác lắc đầu. “Em đã vào đó rồi,” cô khăng khăng.
“Hồi nào?” Ông hỏi.
“Khi anh bị ép học và được nuông chiều, những đứa trẻ khác của nhà Cù Tùng Khoằm thích gì làm nấy. Bọn em thách nhau vào đó. Em là đứa liều lĩnh nhất. Em đã vào đó thám hiểm hàng giờ. Có lần em dành cả ngày lang thang trong khu hầm mỏ. Nó nguy hiểm, đúng. Nhưng dưới đó chỉ có động vật. Em đã thấy dơi. Vài con chuột. Thậm chí cả dấu vết của gấu.”
“Cô biết đường không?” Tôi hỏi. “Cô có thể dẫn chúng tôi tới Basajuan chứ?”
“Có lẽ. Từ khi hay vào trong đó tôi đã bắt đầu tìm hiểu tất cả những gì có thể về chúng. Tôi còn tìm thấy các bản đồ trong thư khố nhà Cù Tùng Khoằm.”
Bão đang trầm ngâm nhìn em gái. “Đáng ra anh phải đi với em,” ông dịu dàng nói. “Anh sẽ trốn học để khám phá các hầm mỏ cùng em.”
Một nụ cười thấp thoáng khiến gương mặt cô thanh tú hơn. “Chắc chắn rồi,” cô nói.
Trái tim tôi hơi quặn lại vì nhận ra sự quen thuộc. Thác cũng giống tôi, người em gái luôn muốn nhận được sự công nhận của anh chị mình mà chẳng được.
“Cô còn nhớ rõ những tấm bản đồ đó không?” Tôi hỏi.
“Gần hết. Các địa đạo được đặt tên và đánh dấu. Rất nhiều trong số đó vẫn còn. Một vài cho biết chiều dài và hướng. Giữa các chỉ dấu và những gì tôi còn nhớ về những tấm bản đồ, tôi nghĩ mình có thể dẫn đường cho mọi người.”
“Chúng ta sẽ đi mất bao lâu?” Hector hỏi.
“Vài ngày.”
Hector quay sang tôi. “Chúng ta không có đủ thức ăn, và không thể chăm sóc được lũ ngựa.”
Tôi nhìn về cuối hang, nơi lũ ngựa đang nghỉ ngơi và hưởng thụ sự ấm áp, đứng ngủ ngon lành. “Vậy chúng ta sẽ giết chúng làm thực phẩm vậy.” Giọng tôi vững vàng như sự quyết tâm của tôi.
“Lối vào gần nhất cách bao xa?” Belén hỏi.
“Nửa ngày đường. Lâu hơn nếu tuyết phủ dày.”
Mọi người nhìn tôi chờ một quyết định.
“Ông nghĩ sao hả Bão?” Tôi nói. “Em gái ông có thể dẫn đường cho chúng ta không?”
Ông nhún vai. “Em tôi là một trinh sát có tiếng, và nếu nó bảo nó có thể thì là có thể.”
Thác chớp mắt trước lời khen ngợi, và sắc hồng làm ửng nước da hoàn hảo của cô.
Tôi bảo, “Vậy chúng ta sẽ đi ngay khi thời tiết tốt hơn. Trong lúc đó, chúng ta sẽ dè sẻn thức ăn hết sức có thể. Đi săn và cắt cỏ cho ngựa sẽ là nhiệm vụ của tất cả mọi người trong chuyến đi.”
Mọi người gật đầu, nhưng Mara buồn bã nhíu mày nhìn tôi. Tôi nhớ cái đêm cô theo chúng tôi xuống lăng mộ dưới thành phố. Mắt cô đã trợn to như cái đĩa khi chúng tôi đi thám hiểm, và khi được cho lui, cô gần như quay gót cuống cuồng chạy lên. Tôi vươn tay bóp nhẹ tay cô. Cô đáp lại.
“Có gì tôi chưa tính đến không?” Tôi hỏi. “Những người khác có ý kiến gì không?”
Im lặng, rồi ngập ngừng, La nói, “Em có.”
Chúng tôi nhìn cô bé đứng lên và lại gần đống lửa. Nó chắp tay sau lưng, đổi trọng tâm từ chân này sang chân kia.
“Gì vậy Nhóc Còi?” Belén hỏi.
Cô bé cười ngượng với anh. “Em đã quyết định được tên mình.”
Tôi nhoài người lên. “Ồ?”
“Tên của em,” nó ngẩng cao đầu, nói. “Là Đá Lấp Lánh Đỏ.”
Không ai phát ra lấy một tiếng động. Chỉ có tiếng lửa lốp bốp, tiếng gió thổi, tiếng vó ngựa.
Cuối cùng tôi cũng cất tiếng, “Chà. Đó quả là một cái tên mạnh mẽ và… độc đáo.”
Gương mặt của La – không, của Đá Lấp Lánh Đỏ – bừng sáng. “Em biết chị sẽ thích mà! Đỏ là màu em thích. Và đá lấp lánh rất mạnh. Là thứ mạnh nhất từng tồn tại. Em nghĩ mọi người nên gọi em là Đỏ, cũng như tên đầy đủ của Bão quá quan trọng, không nên gọi hết ra.”
Ôi, cảm ơn Chúa. “Vậy thì Đỏ,” tôi nói và nhìn quanh, cấm ai cãi lại. Mara có vẻ choáng. Bão và Thác hoàn toàn thờ ơ. Hector và Belén đang nhịn cười đến đỏ mặt.