• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Khúc ca bi tráng - Phần 3: Vùng đất chết
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 50
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 50
  • Sau

3

Lữ quán tối tăm, mù khói, và sặc mùi nước tiểu, cỏ khô mục lẫn món xúp hầm thối. Thay vì những chiếc nệm ngồi lớn và bàn thấp quen thuộc ở miền Nam, trong phòng là những bộ bàn, ghế băng, ghế đẩu lộ cộ. Gần như mỗi chỗ đều có một tay lính mới, và tất cả ngước lên khi tôi và Belén bước vào, nhìn chằm chằm không kiêng nể.

Tôi cố tỏ vẻ hờ hững và thoải mái, tự nhủ rằng ngôi làng này nằm bên một tuyến đường buôn bán, và người lạ không có gì là lạ.

Một người đàn ông lực lưỡng xuất hiện, cầm một cái khăn tay. Bộ râu muối tiêu dài tới ngực, dừng lại ngay trên chiếc tạp dề từng có thời trắng tinh nhưng nay vá chằng vá đụp. “Hết phòng rồi,” ông ta nói cộc lốc. “Nhưng tôi có thể phục vụ món xúp thịt cừu và mời hai vị lên đường.”

Belén và tôi hoảng hốt nhìn nhau. Chúng tôi đáng ra phải tính đến khả năng này.

“Chúng tôi ngủ đâu cũng được,” tôi vội nói. “Chúng tôi chỉ cần một chỗ tránh gió bụi thôi.”

Ông ta xoa cằm nhìn chúng tôi. “Dạo này có rất nhiều người như hai vị đi qua chỗ này.” Ông ta nói. “Bỏ chạy về miền Đông vì cuộc chiến sắp đến.”

Belén gật đầu. “Chúng tôi còn người nhà ở những ngôi làng chưa bị chiếm đóng.”

“Nếu đi quá xa về phía đông, các vị rất có thể sẽ đụng độ người Invierno,” người đàn ông râu quai nón nói.

“Còn hơn gặp nội chiến, khi kẻ địch trông giống như anh em của mình,” tôi cất tiếng.

Ông ta nheo mắt nhìn tôi trong bóng tối, và tôi tưởng ông ta sẽ nói gì đó đại loại như, Trông cô quen lắm hoặc Da cô quá nâu nên không đời nào là người vùng này được. Nhưng ông ta chỉ nhún vai và nói, “Gác lửng trong chuồng ngựa chưa có ai nằm. Cỏ sạch sẽ. Tôi sẽ cho thuê với giá bằng nửa giá phòng thường.”

“Được,” Belén nói. “Xin cảm ơn ông.”

Ông ta ra hiệu cho chúng tôi đi theo, qua các dãy bàn, đi dưới một cây cầu thang gỗ, qua một gian bếp đông đúc và chật chội. Ông ta mở cửa hậu vào một chuồng ngựa nhỏ sặc mùi nước tiểu – coi như cũng là một sự cải thiện so với phòng sinh hoạt chung chúng tôi vừa rời khỏi.

Ông chủ chỉ cây cầu thang gần đó. “Trên đấy,” ông ta nói. “Bốn xu một bát nước xuýt. Sáu xu một tô thịt hầm. Tôi bảo Sirta mang đến cho hai người nhé?”

“Vâng,” tôi nói. “Thịt hầm nhé.” Tôi chẳng trông mong gì vào tô thịt hầm, nhưng trong lần cuối ở sa mạc, tôi đã học được rằng không bao giờ được từ chối thịt.

Ông ta bỏ đi, còn Belén và tôi trèo lên gác mái. Trần thấp, lợp lá cọ khô. Trên này nóng – có phần hơi quá nóng – và tôi đã thấy nhớ khu trại lộng gió nhìn lên cả bầu trời sao của mình rồi. Nhưng ông chủ không nói dối; rơm mới và sạch sẽ.

“Chúng ta gặp may đấy,” Belén nói. Từ dưới vang lên tiếng khịt mũi khe khẽ và một tiếng thình khi có con ngựa đá vào cửa chuồng.

“Đúng thế.” Và tôi không thể không băn khoăn: Nếu may mắn là một thứ có hạn, được bố thí nhỏ giọt, vậy thì liệu chúng tôi có dùng hết nó quá nhanh không? Theo thói quen, ngón tay tôi lần sờ đến Thánh thạch nơi rốn. Cầu Chúa phù hộ cho kế hoạch thành công.

Cảm giác ấm áp lan khắp người tôi khi Thánh thạch vui vẻ đáp lại. Tôi giật tay ra.

Dạo này tôi ít cầu nguyện, dù không cầu nguyện làm tôi thấy thiêu thiếu. Từ lần tìm thấy zafira, khi phép thuật của thế giới chạm thẳng vào tôi, Thánh thạch quá háo hức, như một làn sóng triều bên trong tôi đang gào thét đòi thoát ra.

Đến lúc Sirta đến cùng món thịt hầm, trời đã quá tối nên chúng tôi không nhìn rõ mặt cô gái. Tôi không rõ bằng cách nào cô ta có thể bưng hai cái tô lên cầu thang gỗ, nhưng chúng tôi cảm ơn và ăn nhồm nhoàm. Thịt ôi, và đầu bếp bỏ quá nhiều muối, nhưng đồ ăn không tệ như tôi tưởng.

Thường thì tôi sẽ dùng thời gian rảnh rỗi để tập dùng dao găm. Belén đã tiếp tục dạy tôi cách tự vệ, thậm chí là đánh trả chút chút. Nhưng gác mái không có mấy không gian để tập luyện, và tôi lại chẳng muốn gây tiếng động khiến người ta chú ý. Thế là ăn uống xong, chúng tôi ngồi nóng ruột chờ đợi. Chúng tôi phải hành động ngay khi ngày mới vừa sang.

Tôi không nhận ra mình ngủ gật tới khi Belén lay tôi dậy. “Trời sáng rồi,” anh thì thầm. “Sắp phải hành động rồi.”

Tôi duỗi lưng và chớp mắt cho tỉnh ngủ, rồi đeo hành lí lên vai và theo anh xuống lầu.

Phía sau chuồng ngựa là một lối ra, khiến tòa nhà trông như một nhà kho nhỏ xập xệ. Một lính gác đều đều đi qua đi lại. Tôi hi vọng khi Bão và Mara tấn công, hắn sẽ chạy bộ thay vì cưỡi ngựa truy kích kẻ địch.

Bảy trong tám chuồng có ngựa. Chuồng thứ tám chất đầy cỏ khô. Tuy nhiên, yên cương được cất ở chỗ khác. Belén và tôi lẳng lặng tìm quanh và chỉ thấy hai cái yên ngựa, hai bộ dây cương và một tấm choàng lưng ngựa.

“Mara và tôi sẽ cưỡi ngựa,” anh nói thầm. “Cô có thể dùng ngựa được đeo yên cương.” Tôi khẽ cảm ơn.

Tiếng sắt lanh canh và tiếng chân huỳnh huỵch từ bếp vọng đến. Lữ quán tỉnh giấc chuẩn bị bữa sáng. Chẳng còn mấy thời gian tới khi có người đến chăm sóc ngựa.

“Chúng ta có nên chặn cửa lại không?” Tôi hỏi. “Vậy sẽ kéo dài được thêm chút thời gian.” Thậm chí một hoặc hai phút trước khi binh lính nhận ra cửa bị chặn và đi tìm viện binh.

Belén liếc nhìn quanh. “Các súc cỏ! Giúp tôi di chuyển chúng.”

Tôi mở cửa chuồng ngựa và nhăn nhó vì tiếng cọt kẹt. Súc cỏ quá nặng nên sức tôi không nâng được, nhưng tôi có thể ôm vài bó cỏ và kéo lê về chỗ. Belén, ngược lại, chất lên dễ dàng, cho tới khi chúng tôi tạo được một bức tường vững chắc.

“Để ý lối vào trong lúc tôi đóng yên ngựa cho cô,” Belén nói. “Và để ý tín hiệu của Mara nhé.”

Tôi nhón gót đi ra cửa, đề phòng lính canh. Bầu trời mang màu đen bầm, sao bắt đầu nhạt. Ngay khi những tia nắng chiếu qua đỉnh núi, Mara và Bão sẽ bắt đầu giả vờ tấn công.

Thánh thạch man mát trong bụng, khiến tôi hơi lạnh run, và tôi phấp phỏng hồi hộp. Nếu tính mạng tôi bị đe dọa, Thánh thạch sẽ lạnh cóng, nhưng đằng này nó chỉ man mát. Vậy có nghĩa là nguy hiểm còn ở xa, hoặc chưa chắc chắn. Từ hồi tiếp xúc với zafira, Thánh thạch biểu hiện nhiều trạng thái hơn. Như thể tôi đang sống cùng một Thánh thạch hoàn toàn mới. Hoặc có lẽ nó vẫn vậy, chỉ là tôi đang học cách hiểu nó.

“Cô kia!” Một giọng vang lên giữa cảnh tờ mờ sáng.

Tôi quay lại, thấy bóng một người đàn ông mặc áo choàng sa mạc đang nhìn tôi lom lom. Lính gác. Với một sự bình tĩnh lạ lùng, tôi rời khỏi chuồng ngựa để chặn đường hắn. Thà khiến hắn chú ý đến tôi còn hơn để mắt tới việc Belén đang chuẩn bị ngựa.

“Xin chào!” Tôi vui vẻ cười nói.

“Khu này bị cấm,” hắn nói, tay đặt lên đốc kiếm.

“Thế sao? Chúng tôi thuê căn gác từ chủ nhà trọ. Ông ấy không nói gì về chuyện này.”

“Thế thì cô nên vào trong.”

Tôi nên nói gì tiếp đây? Nếu tôi không thuyết phục được hắn bỏ đi, Belén sẽ giết hắn.

Tôi thở dài sườn sượt. “Làm ơn, thưa ngài, tôi không gây rắc rối gì đâu. Chỉ là chồng tôi còn trong đó, ngáy như sấm, làm tôi không chịu nổi nữa.”

Hắn cười, và tôi nhẹ cả lòng. Cái lạnh của Thánh thạch bắt đầu dịu bớt.

“Cô hứa sẽ không rời khỏi chuồng ngựa chứ?”

Tôi mở miệng định hứa, nhưng tiếng la xông trận của Mara đã vang tới tận trời. Nó the thé và kì dị, như tiếng kêu của thần chết, và dù biết đó là bạn mình cũng không thể ngăn tôi sợ đến dựng tóc gáy.

Tôi lao tới, nắm áo choàng tay lính gác giả bộ hoảng hốt. “Là người thú đấy! Chúng ta bị tấn công rồi!” Người thú chưa từng thông báo sự hiện diện của mình theo cách đó, nhưng tay lính gác vẫn đẩy tôi ra và chạy mất.

Tôi thấy Belén dẫn hai con ngựa về phía mình. Con cao nhất, một con quái vật đen đúa đang thở phì phò, là con được anh chọn đóng yên cho tôi. Tôi hơi nao núng.

“Đừng để kích cỡ của nó đánh lừa cô,” anh thì thào. “Nó hiền như cừu ấy. Sau khi cô lên lưng ngựa, tôi sẽ đưa dây cương con ngựa bé xinh này cho cô. Khi cưỡi, cô nhớ thả lỏng dây cương để nó có thể chạy đều đều bên cạnh cô.”

Con thứ hai, con ngựa nhỏ hơn màu nâu, có lẽ là nâu đỏ, vì trời quá tối nên tôi không nhìn được rõ ràng, nhảy chồm lên và vẫy đuôi qua lại. Belén cười, vỗ cổ nó. “Mara sẽ thích mày lắm,” anh ngâm nga.

Tôi nghe tiếng hét từ xa vọng lại, một tiếng hét vào trận. Bão và Mara chỉ còn một thời gian ngắn nữa trước khi phải bỏ chạy đến điểm hẹn của chúng tôi.

“Còn lũ ngựa?” Tôi hỏi.

“Tôi đã mở cửa chuồng. Tôi sẽ đốt các súc cỏ khi đi.” Nghe tiếng tôi hít vào một hơi, anh nói, “Lũ ngựa sẽ hoảng loạn. Chúng sẽ khó lòng đuổi kịp chúng ta. Cô có ý tưởng nào hay hơn không?”

Tôi thấy buồn nôn. Nhưng không, tôi không có ý tưởng nào hay hơn. Tôi không dám trả lời Belén, thế nên tôi đặt chân lên bàn đạp ngựa và đẩy người, vắt chân ngồi lên thân thể đồ sộ của con vật. Tôi lắc lư khi con ngựa điều chỉnh tư thế. Nó quá lớn, còn tôi cách mặt đất quá xa.

Đừng nghĩ nữa, Elisa. Cứ hành động thôi.

Belén đưa tôi dây cương của con ngựa kia. Tôi quấn đầu dây cương quanh quả táo yên ngựa và nắm chặt bằng tay trái. Tay phải, tôi thử giật cương con ngựa của mình, và nó bước đi.

“Đi theo hướng đông, rời khỏi làng. Cứ di chuyển từ từ tới khi cô ngồi vững. Tôi sẽ đuổi theo ngay.”

Tôi thúc chân vào sườn ngựa, con vật lười nhác bước đi. Chúng tôi sẽ phải di chuyển nhanh hơn nhiều, nhưng tôi nghe theo lời khuyên của Belén và tập trung tìm cách ngồi thăng bằng theo nhịp lắc lư của con vật. Con ngựa bên cạnh đá chân cao hơn mức cần thiết một chút, và tôi biết nó sẽ vô cùng mừng rỡ khi được Mara ra lệnh cho nó phi nước đại.

Chúng tôi đi qua ngôi làng, ẩn mình trong bóng tối. Tôi không thấy một ai; mọi người đều đang ẩn nấp, bỏ chạy hoặc cố tìm cách tự vệ. Từ khóe mắt phải, tôi thấy một vệt sáng bay thành hình vòng cung qua làng và dội thẳng xuống đâu đó gần trung tâm.

Có người la hét. Con ngựa bên cạnh thở phì phò trong lúc đánh hơi và lo lắng di chuyển. Khói. Nó ngửi thấy mùi khói.

Tôi phải tránh được khói trước khi hai con ngựa hoảng hốt và tôi sẽ mất đi sự kiểm soát vốn đã mong manh. Tôi lại đá vào sườn ngựa, nhưng nó chỉ bước thêm vài bước rồi lại tiếp tục di chuyển chậm rề.

Thêm những mũi tên bay qua bầu trời đang rạng. Giọng Bão oang oang khắp thung lũng nhỏ, độc ác và như chửi rủa. Ông đang nói gì đó bằng Thánh ngữ. Rồi tôi cười khúc khích trong họng khi nhận ra đó là một đoạn thơ ngu ngốc về cánh đồng hoa anh túc và lũ cừu bị say thuốc phiện.

Những tiếng kêu la hoảng hoạng, ra lệnh cho cung thủ giương cung, và đột nhiên bầu trời phía bắc sáng lên một quầng đỏ lửa. Bị những tòa nhà chắn mất tầm mắt, nhưng tôi biết có hỏa hoạn. Mắt cay cay, vì xấu hổ và vì khói, tôi lại thúc con ngựa vô dụng.

Có tiếng chân ngựa đằng sau, và tôi quay người ngoái lại. Là Belén. Một tay giữ bờm con ngựa màu xám cao ráo, tay kia cầm cương một con ngựa nhỏ hơn màu hạt dẻ. “Elisa, chúng ta phải đi!” Anh nói lớn.

“Tôi không thể!” Tôi vô vọng nói. “Nó không chịu…”

Belén thúc ngựa đến, nhoài qua và đá vào mông con ngựa của tôi. Nó lao lên chạy nước đại, và đột nhiên tất cả những gì tôi cần làm là ngồi yên không nhúc nhích.

Chúng tôi tới chỗ bọn lạc đà đang bị cột lại, đang đảo mắt và ngoảnh cổ nhìn khắp nơi hoảng hốt. Belén cầm dao cúi xuống và cắt dây buộc, chúng nhân cơ hội phóng đi mất. Tôi buồn bã nhìn theo, chỉ ước gì mình được cưỡi lạc đà. Belén đưa chúng tôi đi hơi chếch về phía nam ngôi làng, và một khi đã khuất khỏi tầm nhìn, chúng tôi quay lại đi lên một triền dốc lổn nhổn đá, dần dần vòng theo hướng bắc về điểm hẹn. Tôi rạp người trên lưng ngựa để bám vững.

Lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi quyết định trộm ngựa, nỗi sợ hãi thật sự xuất hiện trong tôi – nhưng không phải là cho tôi. Nếu có người không đến được nơi đó thì sao? Mara đã quen với vùng đồi núi và mương rãnh; cô có thể dễ dàng lẩn vào bụi cây và trốn mất. Những Bão là người lạ ở đây, không quen với thời tiết khô hanh bụi bặm. Nếu tôi phải hi sinh ông thì sao? Nếu chúng tôi đến điểm hẹn và không thấy Bão thì thế nào?

Tim tôi quặn lại. Bão và tôi đã từ kẻ thù trở thành đồng minh bất đắc dĩ, rồi bạn bè khắc khẩu. Dù không bao giờ nói ra, nhưng tôi thích ông ta. Làm nữ hoàng đã dạy cho tôi bài học rằng ta hiếm có bạn bè chân tình, và tôi không muốn mất một ai.

Chúng tôi đến một khe hẹp, phần nào được những bụi cây gai che khuất. Belén cho ngựa dừng, rồi dễ dàng xuống. Anh giữ cương ngựa để tôi xuống. “Chúng ta sẽ dắt ngựa từ đây,” anh nói khẽ. “Chúng ta phải thật im lặng.”

Anh dắt hai con, và tôi đi theo. Cái khe núi chỉ đủ vừa cho hai con ngựa, và chúng lo lắng va vào nhau. Tôi nhìn cặp chân sau, và chỉ sợ chúng đá hậu. Nhưng khi con ngựa của tôi thở một hơi vào tóc, khiến cổ tôi man mát, tôi chỉ có thể nghĩ được rằng: Làm ơn đừng cắn tao.

Vùng này dọc ngang toàn những ụ đất, bụi gai và rãnh nước. Nếu không có Belén, tôi bị lạc đường là cái chắc. Chúng tôi ngoặt vài lần, leo lên hai ngọn đồi thấp, vòng qua một ụ đất lớn, bị xây xước vì những bụi cỏ xoáy và cây hùng quả. Áo choàng bảo vệ tôi khỏi bị thương tích nghiêm trọng, nhưng má và tay tôi đầy những vết xước. Tôi bỗng thấy ngưỡng mộ lũ ngựa. Da chúng mỏng hơn nhiều so với da lạc đà, ấy thế mà chúng vẫn chẳng hề nao núng dấn bước.

Belén dừng lại và giơ ba ngón tay – ra hiệu cho tôi im lặng trong lúc anh đi thám thính trước. Tôi sẽ phải ẩn nấp khi còn một mình, nhưng lần này tôi chả biết chui vào đâu. Thay vào đó, tôi từ sau mông ngựa ló đầu nhìn ra xem có chướng ngại gì. Một rạch nước nhỏ có vẻ khó vượt qua, bị chắn bởi cây gỗ nhờn, những cây ngọc giá khô và loại cây bụi gì đó tôi không rõ. Anh nhẹ nhàng rẽ bụi cây và biến mất bên trong, để lại tôi một mình với bốn con ngựa.

Mặt trời đã lên cao; chúng tôi sẽ cần sớm tìm chỗ trú, hoặc một con đường thẳng để tẩu thoát. Chim chóc hót vang chào ngày mới, và gì đó xào xạc ở bụi cây bên cạnh. Thằn lằn thôi, tôi tự nhủ, dù đây là vương quốc của các loài rắn độc.

Belén rời khỏi bụi cây. “An toàn,” anh nói. “Mara và Bão đã có mặt.”

Tôi nhẹ cả lòng.

Bụi gai quá dày nên chúng tôi không thể đi cùng lúc nên anh dẫn từng con ngựa qua. Cuối cùng cũng đến lượt tôi, anh rẽ bụi cây và tôi len qua, tóc và quần áo bị các cành cây lôi kéo. Anh đi theo, để bụi cây khép lại, và tôi thấy mình đã ở một hẻm núi sa thạch nhỏ xíu chỉ vừa đủ cho bốn con người và lũ ngựa.

Mara và Bão ở bên kia bãi cỏ khô. Mara đang chăm sóc cẳng tay cho ông.

“Ông bị thương à?” Tôi hỏi.

Ông gật đầu. “Tôi bị tên bắn sượt qua. Cũng khá đau.”

Mara trừng mắt. “Chảy cũng khá nhiều máu,” cô vừa nói vừa quấn vải quanh cánh tay ông. “Nhưng vết thương nông thôi.”

“Hai người có gặp rắc rối gì khi đến đây không?” Belén hỏi. “Có bị ai bám theo không?”

Mara đứng lên và xoa vai. “Tôi nghĩ là không. Nhưng ôi, giá mà hai người được chứng kiến! Bão thật tuyệt vời. Và khi ông ta bắt đầu hét lên bằng Thánh ngữ, mọi người hoảng hốt và tên bắn như mưa…”

“Nhưng cô có thấy ai truy tìm chúng ta không?” Belén hỏi dồn. “Có ai mà ta quen biết không? Chúng ta phải cách ngôi làng càng xa càng tốt ngay khi có thể, để đề phòng tình huống xấu đi.”

Mara cau mày. “Lính trinh sát giỏi nhất đều đã gia nhập Malficio của chúng ta, nhớ chứ? Bây giờ hầu hết họ đang phục vụ nữ hoàng Cosmé.”

Anh nhăn mặt khi nghe thấy tên người đồng hành cũ – và cũng là vị hôn thê cũ. “Ta không thể biết trước chuyện gì, Mara.”

Tất cả quay sang tôi chờ đợi quyết định cuối cùng.

“Bão, bị thương thế này thì ông có cưỡi ngựa được không?” Tôi hỏi.

“Dễ hơn là phải chạy với cái cùm đáng nguyền rủa này,” ông bảo.

“Vậy thì chúng ta đi.”

Khi chúng tôi lên ngựa, Mara nhoài người sang và nói, “Tôi bắn vào chuồng lợn. Không ngôi nhà nào bị cháy đâu, tôi thề.”

Belén nhẹ bước đến và nói thêm, “Và tôi không đốt chuồng ngựa. Gõ mạnh vào chuồng ngựa cũng đạt được hiệu quả tương tự.”

Vẻ thấu hiểu nhanh chóng xuất hiện trên gương mặt cả hai. “Cảm ơn hai người,” tôi nói khẽ. “Cảm ơn nhiều lắm.”

Belén dẫn chúng tôi theo hướng đông rời khỏi hẻm núi. Chúng tôi đi thành một hàng qua một kênh nước cạn rồi lên một ngọn đồi khác, sau đó tăng tốc. Tôi nhanh chóng nhận ra phi ngựa nước đại dễ chịu và không đáng sợ như đi nước kiệu, và con ngựa lười biếng của tôi cuối cùng cũng chịu chạy khi mà con ngựa của Mara cứ chực cắn chân nó.

Tôi thầm mỉm cười. Chúng tôi đã làm được. Chúng tôi đã trộm ngựa. Giờ thì mỗi ngày chúng tôi có thể đi xa gấp đôi.

Chúng em đang tới, Hector.