Chính văn
認人為兄喻
昔有一人形容端正智慧具足,復多錢財, 舉世人聞無不稱歎。
時有愚人見其如此,便言我兄。所以爾者,彼有錢財須者則用之,是故為兄;見其還債,言非我兄。
傍人語言:「汝是愚人!云何須財名他為兄?及其債時復言非兄。」
愚人答言:「我以欲得彼之錢財認之為兄,實非是兄,若其債時則稱非兄。」人聞此語無不笑之。
猶彼外道,聞佛善語貪竊而用以為己有, 乃至傍人教使修行不肯修行,而作是言:
「為利養故,取彼佛語化道眾生,而無實事,云何修行?」
猶向愚人為得財故言是我兄,及其債時復言非兄,此亦如是。
Phiên âm
NHẬN NHÂN VI HUYNH DỤ
Tích hữu nhất nhân hình dung đoan chính trí tuệ cụ túc, phục đa tiền tài, cử thế nhân văn vô bất xưng thán.
Thời hữu ngu nhân kiến kỳ như thử, tiện ngôn ngã huynh. Sở dĩ nhĩ giả, bỉ hữu tiền tài tu giả tắc dụng chi, thị cố vi huynh; kiến kỳ hoàn trái, ngôn phi ngã huynh.
Bàng nhân ngữ ngôn: “Nhữ thị ngu nhân! Vân hà tu tài danh tha vi huynh? Cập kỳ trái thời phục ngôn phi huynh”.
Ngu nhân đáp ngôn: “Ngã dĩ dục đắc bỉ chi tiền tài nhận chi vi huynh, thực phi thị huynh, nhược kỳ trái thời tắc xưng phi huynh”. Nhân văn thử ngữ vô bất tiếu chi.
Do bỉ ngoại đạo, văn Phật thiện ngữ tham thiết nhi dụng dĩ vi kỷ hữu, nãi chí bàng nhân giáo sử tu hành bất khẳng tu hành, nhi tác thị ngôn: “Vị lợi dưỡng cố, thủ bỉ Phật ngữ hóa đạo chúng sinh, nhi vô thực sự, vân hà tu hành?”
Do hướng ngu nhân vi đắc tài cố ngôn thị ngã huynh, cập kỳ trái thời phục ngôn phi huynh, thử diệc như thị.
Dịch nghĩa
Xưa có một người hình dung đoan chính, có đủ trí tuệ lại nhiều tiền của, cả thế gian ai cũng khen ngợi.
Có một kẻ ngu thấy họ thế liền nhận là anh mình. Người kia có tiền, lúc cần thì mượn dùng, đến lúc phải trả nợ thì không nhận là anh.
Người khác bảo: “Ngươi là kẻ ngu, lúc cần tiền thì nhận là anh, khi phải trả nợ thì lại nói không phải anh”.
Kẻ ngu đáp: “Tôi vì muốn được tiền tiêu, nên mới nhận họ là anh, chứ thực ra không phải”. Nghe hắn nói thế ai cũng chê cười.
Như kẻ ngoại đạo trộm lời hay của Phật làm của mình, đến lúc người ta bảo tu hành thì không chịu theo, lại trả lời rằng: “Chỉ vì lợi dưỡng, nên đem lời Phật để dạy bảo chúng sinh, mà không có sự thật, còn nói gì tu hành”.
Cũng như kẻ ngu vì cần tiền của mà nhận là anh, khi đòi nợ thì không nhận là anh, cũng như thế đấy.