Biết mình có thể chết
Con đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông đã có nhiều người biết. Nhưng chưa mấy ai biết về người lái con tàu Không số đầu tiên mở đường Hồ Chí Minh trên biển Đông. Người ấy đi tiên phong, chấp nhận những thử thách ở phía trước vô cùng cam go, quyết liệt. Người ấy đã dấn thân vào nơi muôn vàn nguy hiểm, chấp nhận mọi rủi ro, hy sinh trên mông mênh biển cả, đầy trắc trở, con người chỉ như một giọt nước nhỏ nhoi. Vượt qua bao gian nan, khổ cực, thần chết luôn rập rình bởi giông gió, máy bay địch, tàu chiến địch tuần tra dày đặc trên vùng biển miền Nam, nhưng với lòng quả cảm tuyệt đối và khát vọng cháy bỏng vì độc lập tự do, con người ấy đã dấn thân và đã chiến thắng.
Người đó chính là Anh hùng Lê Văn Một - Thuyền trưởng và chính trị viên Bông Văn Dĩa cùng 13 thuỷ thủ đoàn lên con tàu Không số đầu tiên, chở 30 tấn vũ khí từ Đồ Sơn ra khơi, tiến về Nam Bộ lúc 22 giờ đêm 11 tháng 10 năm 1962. Họ là những người đầu tiên mở ra con đường bất tử trên Biển Đông. Để những năm sau đó, những con tàu nối tiếp trên con đường bất tử ấy, chở vũ khí đạn dược chi viện cho miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Cảm nhận về con tàu Không số đầu tiên trên Biển Đông, nhà thơ Dân Thanh đã viết: “Gọi tên anh - Lê Văn Một, đã thấy một vì sao sáng rực chân trời/ Anh lái thuyền, không, anh lái cả biển khơi/ Chở vũ khí về Nam chiến đấu/ Đoàn cảm tử quân mở đường trên biển, khơi thêm dòng máu anh hùng Việt Nam/ Sóng bạc đầu/ Bom nổ/ Những tia chớp sáng trời, con thuyền anh vẫn vun vút lao đi/ Miền Nam đây rồi, thuyền đã về cập bến/ Miền Nam trong trái tim anh...”.
Chúng tôi có dịp được gặp mặt những người thuỷ thủ trên con tàu Không số đầu tiên tại gia đình anh Lê Văn Một. Trong buổi gặp ôn lại chuyện con tàu không số đi trên con đường trên biển đầu tiên có cả bạn bè thân thiết của anh Một - những người từng dõi theo bước chân quả cảm, táo bạo của anh trên con đường đầy sóng gió mà anh đã trải qua. Buổi gặp mặt đầy ấn tượng có hai người khá đặc biệt. Đó là bà Lao Kiểu Cachi, người gốc Thái Lan, là vợ anh Lê Văn Một. Người thứ hai là bà Nguyễn Thị Loan - người em họ thân thiết của gia đình anh Một, người đã có công sưu tầm, biên soạn cuốn nhật ký của Lê Văn Một. Đây là những tư liệu rất quý để chúng ta và thế hệ mai sau hiểu thêm rằng, để có cuộc sống bình yên hôm nay đã có biết bao người dấn thân vào con đường chông gai, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Lê Văn Một là một trong những con người như thế.
Bà Lao Kiểu Cachi tuổi đã cao nhưng trí nhớ vẫn minh mẫn. Bà có khuôn mặt nhân hậu của người Thái. Hồi nhớ lại những gì người chồng thương nhớ của bà đã trải qua, bà kể: Lê Văn Một quê ở Tiền Giang, vốn là cựu thuỷ thủ trong hải quân Pháp, làm việc trên tuần dương hạm Lamotte - Picquet lớn nhất Đông Dương, được cách mạng giác ngộ, đi theo cách mạng và tích cực hoạt động ngay từ tháng 8 năm 1945. Từ đó, Lê Văn Một được đồng chí Dương Quang Đông chọn vào lực lượng vận tải vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau năm 1954 tập kết ra Bắc làm cảng trưởng cảng Cẩm Phả, năm 1962, Lê Văn Một trở lại quân đội và được đơn vị cử làm thuyền trưởng tàu Không số đầu tiên, cùng người chính trị viên và đồng đội chèo lái con thuyền vượt đại dương chưa từng có trong lịch sử, một chuyến đi mạo hiểm và thành công không thể ngờ.
Ông Nguyễn Trọng Xuất - nguyên Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tỉnh Tiền Giang (1961-1962) đã nói với mọi người về anh Lê Văn Một: Người anh hùng đích thực rất ít nói về mình, Lê Văn Một cũng vậy. Nhưng những đồng chí, đồng đội và những thế hệ sau đều tìm thấy ở anh nhiều điều đáng suy ngẫm cho chính mình. Có thể nói, vì biết mình có thể chết, nhưng vẫn làm, đó là chỗ hơn người. Cái vĩ đại của người anh hùng là trong tiềm thức của họ nung nấu một niềm tin chắc chắn rằng, sự hy sinh của mình sẽ được thế hệ sau nối tiếp. Riêng anh Lê Văn Một có một điều khác là thấy được sự thành công ngay trong thế hệ của anh, thế hệ Hồ Chí Minh mà chúng ta đang sống.
Những hành động cảm tử của đoàn quân trên con tàu không số được Thuyền trưởng Lê Văn Một ghi lại tỉ mỉ ngay trên con thuyền trong chuyến đi đầu tiên. Bà Lao Kiểu Cachi nói:
“Đó là vật kỷ niệm của chồng tôi, khi còn sống, anh giữ gìn nó như của quý nhất. Nay anh không còn, nhưng tôi vẫn luôn giữ nó bên người, thay anh. Các con tôi rất trân trọng kỷ vật mà cha để lại. Các cháu có đọc. Riêng tôi - vợ anh - là người Thái, tôi không tự đọc được những gì anh viết, nhưng sau mười năm xa cách kể từ ngày anh tập kết ra Bắc, anh đã cho tôi biết rằng anh đã tình nguyện cảm tử như lời thề trước Đảng. Chuyến đi biển năm ấy gian nan khổ cực lắm, nhưng được Đảng giáo dục, anh đã qua mọi thử thách. Các cháu lớn đọc bút tích của cha, cháu nào cũng muốn được giữ gìn kỷ niệm quý nhất của cha để lại. Cháu Lê Ba về quê ngoại bên Thái Lan, cháu Minh sang Campuchia cũng xin được đem theo kỷ vật của cha. Nhưng tôi không cho, sợ mất”.
Trong buổi gặp mặt các cựu thuỷ thủ trên con tàu Không số (Lữ đoàn 125), bà Nguyễn Thị Loan giới thiệu với chúng tôi từng sự kiện Lê Văn Một viết trong cuốn nhật ký:
“... Đúng 22 giờ ngày 11 tháng 10 năm 1962, tàu chúng tôi nổ máy, tiến ra biển về phương Nam. Tàu chạy máy nhỏ rẽ sóng ra khơi xa dần. Những bàn tay vẫy vẫy tạm biệt mờ dần.
Khoảng 8 giờ tối ngày 14 tháng 10 năm 1962 tới vĩ tuyến 17, thấy một đèn tàu nhỏ chạy song song cách tàu mình khoảng 3 hải lý, mình đoán là tàu địch, nhưng không báo cho anh em vội, sợ hoang mang. Có lẽ tàu địch không nhìn thấy tàu mình, vì mình chạy không đèn tối thui. Mình báo cho Bí thư Dĩa và máy trưởng tăng tốc để vượt khỏi vĩ tuyến 17. Mình theo dõi đèn tàu địch đến khi mất hút ánh sáng mới thôi. Trời sáng thấy một vệt nước trắng xoá trước mặt, không kịp rồi, tàu đâm thẳng vào làn nước ấy chồm lên bãi đá. Nguy quá, giữa biển khơi, cách bờ khoảng 200 hải lý ngay vĩ tuyến 16, tại sao có bãi đá này? Chèo chống mãi vẫn không ra được, nếu bị bể, nước vô, tàu chìm thì đâu chỉ 14 con người trên tàu chìm xuống đáy biển mà mấy chục tấn vũ khí cũng tiêu luôn. Có ý kiến đề nghị bỏ bớt dần cho tàu nổi lên. Mình đồng ý, vì bỏ bớt hàng để cứu lấy sinh mạng, cứu số vũ khí dù còn ít vẫn hơn mất tất cả. Thế là 8 thùng dầu được thả xuống biển, 7 thuỷ thủ cũng nhảy theo cho tàu nhẹ bớt. Một giờ sau tàu lướt ra khỏi bãi đá, thở phào.
Tàu chạy ngang qua mũi Dinh, một con tàu lớn xuất hiện đuổi theo tàu mình. Trên tàu các thuỷ thủ sẵn sàng chiến đấu, súng chĩa qua tàu mình, có rất nhiều khẩu súng B-40 chĩa sang, nếu tàu mình hành động lập tức bị thủ tiêu ngay. Mình và anh Dĩa bình tĩnh quan sát, hoá ra là tàu Trung Quốc không rõ đi đâu mà đụng nhau. Lúc bấy giờ Trung Quốc đang ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ. Hai con tàu rời nhau lặng lẽ vượt sóng theo con đường đã chọn.
Hôm sau gió mạnh, mặt biển sóng ầm ào. Đêm xuống sóng càng to. Con tàu của mình nhỏ nhoi trên mặt sóng. Tại đây mình chuyển hướng Tây Nam để đi giữa Côn Đảo và đất liền.
Khoảng một tiếng sau, có một tàu chạy theo đúng vẹt nước mình lái; tàu sơn xanh, chạy rất mau y như tàu trận. Mình lấy ống dòm xem, cũng lo. Anh em cũng chuẩn bị vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Chống tăng đã nạp kíp vô hết, đại liên đặt vào vị trí, sẵn sàng.
Tàu chạy ngày càng gần, thấy mũi chổng lên quá cao đoán là tàu hàng. Khi đến gần, đúng là tàu hàng không có chở gì, mũi nổi lên, đến khi họ chạy qua mặt mình thì biết tàu bọn Na Uy Thụy Điển gì đấy chạy về Xinhgapo. Tàu sơn xanh giống tàu trận quá. Một phen hú vía. Anh Thanh “cơm nếp” đã lấy hình Bác giấu từ lâu... ngồi trước mũi nuốt chửng.
Bọn tàu bên kia lấy ống dòm nhìn, lấy làm lạ không biết bọn nào mà gan quá, tàu cây nhỏ xíu ra quá khơi. Có lẽ bọn chúng đoán là dân buôn lậu thôi.
Khoảng 2 giờ sáng 18 tháng 10 anh em gác thấy một đèn, nghi đèn tàu địch báo động thức dậy. Tàu mình vẫn chạy tới, vẫn thấy đèn ấy đứng một chỗ hoài, mãi đến sáng khi gần hết thấy đèn thì thấy một hòn ló ra. Ông Dĩa báo là Côn Đảo, vì từ năm 1940 đến năm 1945 ông bị nhốt ở đấy.
Thế thì khoảng này mình dự đoán sai. Tàu máy chạy chậm, nhưng vì gió xuôi, nước xuôi nên cũng đi bình thường như trước kia, mình trừ hao nhiều nên tàu đến Côn Đảo trước hơn dự định.
Như thế tàu mình cách Côn Đảo khoảng gần 30 hải lý. Tiếp tục cho chạy hướng mũi Cà Mau”.
*
Gấp quyển nhật ký, quay ra bà Loan nói với chúng tôi: Có nhiều điều trong cuốn nhật ký Lê Văn Một đã không nói hết. Do anh phải tập trung thời gian, sức lực đối phó với những tình huống hiểm nguy trên biển. Khi bão gió, sóng to, tàu hỏng, khi tàu địch bủa giăng, Thuyền trưởng Lê Văn Một và anh em trong đoàn làm gì để bảo vệ con tàu quý giá trong tình huống hiểm nghèo? Có dịp được trò chuyện với Lê Văn Một, bà Loan kể lại:
Đưa vũ khí về miền Nam, đi trên biển khác đi trên đường Trường Sơn. Trên biển gặp sóng gió to, giông tố bão bùng phải nhanh chóng vào bờ, ven biển thì đồn bốt địch bủa giăng. Hai thử thách đan xen nhau, địch lại tuần tra phía trước. Đi đằng nào? Anh và anh Dĩa đã phải giằng co nhau trên biển trong cả hai tình huống đan xen nhau: “Giông bão và địch” phải đối phó làm sao để bảo vệ mình và con tàu đầy ắp vũ khí. Anh luôn theo dõi con tàu địch. Đứng trên boong tàu, nhìn được xa hơn, bỗng thấy một thánh giá xuất hiện lé đé mặt nước.
Anh đưa ống nhòm cho anh Dĩa. Quả việc chẳng lành sắp đến rồi.
- Cho lách thuyền ra khơi nữa đi! Căng thêm buồm.
Thuyền lướt nhanh, gió thổi mạnh. Ngọn sóng lướt dài. Thuyền chở nặng phía sau lái có thể với tay khoát nước được. Không thể căng thêm tất cả buồm được, chạy nhanh hơn thì nguy hiểm. Cái thánh giá mỗi lúc càng cao và càng gần. Không còn nghi ngờ gì nữa, tàu giặc rồi. Nó lộ nguyên hình và chĩa hướng về thuyền, nhưng chậm chạp. Có lẽ tàu nó ngược gió và sóng. Anh Một và anh Dĩa đoán chừng như vậy! Mới đoán vậy, bỗng mấy phát pháo chĩa về hướng thuyền ta, cách mặt biển không cao. Anh em nhanh trí không chờ lệnh đã xô cả buồm lái và mũi cho thuyền căng gió lướt trên ngọn sóng, cho thuyền xuôi nhanh hơn nữa.
Anh Lê Văn Một lệnh cho anh em chuẩn bị chiến đấu. Lựa đạn bỏ vào túi hết, mang vào người, kéo trái bom đặt dưới thuyền. Súng ngắn đeo vào người, và giao cho mỗi người thủ một tiểu liên; người lái tàu thêm đại liên. Khi cần thì phóng thuyền ra phía sau tàu địch cho nổ bom phá áp tàu địch, dùng tiểu liên, lựu đạn đánh địch; người lái thì cứ cho thuyền chạy thoát. Nếu không thoát thì cứ cho nổ ba trái bom còn lại, không để cho địch lấy thuyền ta. Anh Một và anh Dĩa dự kiến, nếu địch bắt cả thuyền thì lợi dụng trời tối cắt dây cho anh em lội xuống nước, còn anh và anh Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu thuyền. Anh nói với anh Dĩa:
- Để một mình tui thôi! Anh cùng anh em may ra còn sống sót trở về Trung ương. Điện báo về Trung ương ngay!
Điện đài lại tắc nghẽn. Mọi người trên tàu im lặng. Tàu giặc, tàu ta tranh nhau lặn hụp, trồi lên theo con sóng. Khi sóng hụp, ta chỉ còn thấy cột buồm. Khi trồi lên ngọn sóng thì thấy nguyên hình, nhưng không thấy được giặc. Có lẽ cũng còn cách xa nhau vài hải lý. Lại thêm mấy phát pháo bắn lên. Mặt trời đổ xuống. Nhận thấy tàu giặc tụt xa hơn một chút, anh thấy mừng trong bụng. Anh Một nói để động viên anh em: Nó tụt ra sau mình rồi.
Nhưng anh vẫn chờ địch nổ súng. Anh Dĩa sẵn sàng đón sự thử thách đó, lại nói rằng: Địch khó bắn trúng vì lúc đó gió thổi mạnh hơn. Thuyền ta và tàu giặc vẫn chạy đua nhau. Trời tối, tàu Lê Văn Một không có đèn, tàu địch đèn vẫn sáng, tàu rẽ ngang, không có đèn địch không phát hiện ra mục tiêu, tàu ta đã chạy thoát.
*
Bà Loan kể cho chúng tôi nghe một tình huống cực kỳ nguy hiểm khác của Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa trên con tàu. Tàu đang đi, một đám mây đen khổng lồ xuất hiện. Đám mây sẽ trút nước xuống, chắc chắn con thuyền sẽ chìm nghỉm. Rẽ tàu chạy vào phía đất liền thì tàu địch đang phục sẵn. Anh Một ngước mắt nhìn trời tìm một lối thoát rồi quay lại đám mây đen ác nghiệt! Nhìn khoang thuyền súng đạn đầy ắp. Cảm thấy thuyền không thể chìm dưới cơn bão tố sắp đến này, anh lại lừng chừng:
- Chờ một lúc nữa xem sao, không vội đâu.
- Không chờ lâu được đâu! Quyết định đi! - Anh Dĩa nghiêm nghị hơn - Út Một, tôi với chú đã từng gian truân khổ cực trăm bề thời kháng chiến chống Pháp trên vịnh Thái Lan, nể nhau đi mà, chú nghe tôi lần này đi. Gặp giặc thì tôi cũng đánh và cùng đồng đội sống chết với chú; chứ thứ gió này tôi bất lực! Chú còn nhớ chứ, gió “lồng chung” thuở ấy chúng mình phải tấp vào bến Ngự của vua Gia Long ngày trước, ở đó cả tháng trời ăn cả củ chuối, chú còn nhớ chứ?
Anh Một cãi lại anh Dĩa:
- Bây giờ đâu phải ăn củ chuối để sống chờ cho qua sóng gió đâu, mà bây giờ là phải đương đầu với giặc để mất súng ống là mình có tội với đồng bào và đồng chí đang cần súng đánh giặc.
... Nhưng rồi anh cảm thấy nói không ra lời nữa. Ở giữa biển này cũng chết, vào bờ cũng chết sống với giặc, chết ở đây, giặc không lấy được súng của ta vì thuyền ta chìm rồi. Vào bờ mà chết thì nhục lắm. Mình chết đã đành, còn bị địch lấy vũ khí. Nhưng anh Dĩa kiên quyết chọn phương án cho con tàu vào bờ bởi vẫn hy vọng hơn. Lê Văn Một đành lòng:
- Thôi được, tôi nghe anh, ta cho quay mũi vào bờ rồi sẽ tính sau - Một nói với mọi người - Ta quay mũi vào bờ, anh em phải sẵn sàng bảo vệ vũ khí. Còn một người sống sót là phải phá, giật dây mìn phía trước, các anh chuẩn bị vũ khí của mình đi.
Anh Một ở phía trước, phía sau là anh Dĩa. Anh em mỗi người đều một khẩu súng để cạnh, sẵn sàng chiến đấu. Họ bắt đầu lo lắng trở lại. Còn vài tiếng đồng hồ nữa mới thấy bờ. Anh ra sau lái ngồi cạnh anh Dĩa mở lương khô ra ăn, đầu óc suy diễn: “Một trận chiến có thể sắp xảy ra. Thuyền ta sẽ bị bể, nước tràn vào, có thể bị chìm. Tàu tuần tiễu của giặc chạy ghìm súng vào cập sát thuyền ta rồi bọn nó nhảy xuống xét giấy tờ. Thế là phải đánh. Bọn trên tàu có thể chết, nhưng chúng nó đông, chắc là nguy ngập. Chúng sẽ đưa ca nô ra dòng tàu ta vào bờ... ta sẽ cho mìn nổ từ ngoài xa, không để cho giặc lấy được vũ khí... Nếu không gặp giặc, ta sẽ đậu đâu đó để tránh cơn bão”.
Anh cùng anh Dĩa xác định phương án là chiến đấu đến cùng, cho mìn nổ phá huỷ thuyền không để cho giặc lấy được súng trên thuyền.
... Mây đen đã bỏ vòi rộng khắp chân trời. Những luồng khói trắng như hơi nước từ dưới biển lên và từ trên trời tủa xuống.
Đến bên người cầm lái, anh hỏi:
- Liệu có kịp không, nên canh chừng, còn sớm thì cứ xuôi về Nam đừng vào bờ vội.
- Cứ phải chạy thẳng vào bờ, không kịp đâu, vì còn cách bờ xa.
Anh Một lái thuyền cho chạy sát bờ còn độ hơn hải lý. Trên bờ không thấy đèn. Tiếng sóng vỗ vào thành đá của đồi núi dọc biển nghe ầm ầm, đáng sợ. Qua ánh chớp dọc theo bờ không thấy nhà cửa!
Anh nghĩ, sóng gió này không tên giặc nào dám mò ra đây. Mới nghĩ vậy, người lái thuyền la to: “Hạ buồm cái”. Tiếng rõ rẽ nghe ken két. Buồm hạ nhanh, cánh buồm đánh phành phạch, thuyền chòng chành.
Anh Dĩa hét to:
- Cầm chèo neo phụ thuyền.
Thuyền quẹo một cua gấp thì tiếng mưa rơi. Gió bay trên đỉnh đồi, thuyền êm sóng và từ từ trôi nhẹ.
- Sống rồi!
Anh Dĩa cho từ từ hạ neo, anh Một thì cản lại để nghe động tĩnh ra sao rồi sẽ ổn định thuyền.
Nghe ngóng hồi lâu, không thấy một ánh lửa, không tiếng động xung quanh, chỉ có tiếng vù vù...
Đêm mưa, mưa mãi, phải tát nước nhiều lần. Trên trời gió rít, chỉ nhìn ra ngoài được khi có ánh chớp. Càng khuya càng mòn mỏi, mỗi người thiếp đi một chút. Anh Một và anh Dĩa gật gù vài phút. Đầu óc vẫn còn căng. Chưa biết việc gì sẽ xảy ra tiếp nữa. Chỉ chờ bớt mưa, giảm gió là lẻn ra khơi.
Sau này, nhắc lại chuyện này - Lê Văn Một nhớ anh Dĩa, anh rất kính nể vai trò của người bí thư chi bộ, linh hồn của đồng đội trên con tàu.
*
Bà Nguyễn Thị Loan mở tiếp cuốn nhật ký. Đoạn cuối anh Lê Văn Một viết: “Ngày hôm sau tiến sát vào đất liền qua nhiều trạm địch, tuần tiễn, đều tránh được. Nhận được ám hiệu từ tàu của bọn mình, cơ sở kháng chiến cho thuyền ra đón và dẫn đường. Con thuyền chạy trước, tàu của mình theo sau tiến vào luồng lạch Vàm Lũng.
Chạy khoảng 2 giờ đồng hồ, lạch hẹp, đôi chỗ cạn, lái khó khăn. Đến cuối ngọn Chùm Gọng, nhánh của sông Rạch Gốc, gần ngã ba Dinh Hạn đậu, sau đó ghe máy đến lấy hàng. Họ rất phấn khích khi nhận hàng để chở đi giấu vì họ biết số vũ khí này sẽ giết được nhiều quân thù cho đồng bào miền Nam.
Tàu mình chở một chuyến mà họ phải bốc đến hai ngày chở gần mười chuyến ghe máy nhỏ mới hết.
Đồng chí Tư Đức (dân mùa thu) tập kết trở về phụ trách cơ quan NB35 rất lo vì không dè tàu to chở nhiều như thế này, trong đấy không lường trước được nên không đủ kho để chứa, cũng không đủ người làm. Các đồng chí trong cơ quan này bây giờ mới thiệt phấn khởi vì từ ngày được về công tác tiếp vận này chỉ biết giữ kho trống, từ lúc chờ đợi không biết công tác gì, không thấy đi đánh địch, chờ mãi đâm chán. Nay bốc được hàng, mặc dầu không được mở thùng, nhưng họ cũng đoán ra toàn đạn và vũ khí tối tân nên họ rất phấn khởi”.
Theo dõi câu chuyện huyền thoại về con tàu Không số, ông Dương Quang Đông nói: “Tôi rất tự hào về Lê Văn Một. Tự hào về Bông Văn Dĩa”.
Lê Văn Một - người Thuyền trưởng tàu Không số đầu tiên cùng đồng đội vượt biển không chết trên Biển Đông, một điều may mắn, âu cũng là huyền thoại, anh lái thuyền, không, anh lái cả Biển Đông đưa được vũ khí về đến nơi đến chốn để để góp phần đánh và thắng đế quốc Mỹ. Từ điển Bách khoa quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam đã ghi danh Bông Văn Dĩa, Bí thư chi bộ; Lê Văn Một, thuyền trưởng tàu Không số đầu tiên.
Tôi nghĩ và có thể cho đây là bài học quý báu đầu tiên: Trung ương, Quân ủy Trung ương đã khéo chọn, khéo sắp xếp một “cặp bài trùng”, Bông Văn Dĩa và Lê Văn Một cùng một chuyến đi mở đường, cũng như họ đã từng trên vịnh Thái Lan thời chống thực dân Pháp tiếp tục đưa vũ khí về cho Nam Bộ kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
Họ đã biết tánh ý nhau, tôn trọng nhau, cùng đoàn kết yêu thương nhau, cùng đồng đội chiến đấu, chiến đấu không phút nào ngơi trên biển mà chưa một lần họ đã được thử thách đủ mọi phương diện.
Tôi tâm đắc về sự thành công của con tàu Không số đầu tiên mở đường là như vậy! Còn “cái sống”, “cái chết” thì họ đã thề với non sông đất nước rồi.
Con tàu Không số do Lê Văn Một chèo lái, mở đường trên Biển Đông, sau ngày đó, lớp lớp những con tàu tiếp tục theo con đường ấy chở vũ khí vào Nam. Anh Lê Văn Một và nhiều thủ thuỷ trên con tàu Không số nay không còn nữa nhưng Tổ quốc mãi mãi ghi công các anh. Con đường trên biển các anh khai mở mãi mãi là con đường của huyền thoại.