Bố tôi bị chết vì đại bác giặc Pháp từ bốt La Uyên bắn về. Mẹ tôi bảo bấy giờ là mùa hè năm 1947, mẹ tôi đang có thai bảy tháng. Ít lâu sau, mẹ tôi sinh đôi con trai. Bà đặt tên nôm na anh tôi là Sinh, tôi là Đôi. Chúng tôi không được biết mặt bố, vì ngày ấy ở nông thôn chẳng mấy người có tiền chụp ảnh.
Chúng tôi lớn lên trong sự nuôi dưỡng khá chật vật của mẹ. Cùng tuổi, cùng mẹ mà chúng tôi khác cả về tầm vóc và tính nết. Anh Sinh gầy và cao, người mảnh khảnh. Tôi chỉ cao ngang cổ anh Sinh nhưng béo, có người gọi đùa: Đôi phệ. Nước da thì cả hai đều như đồng thau. Tôi nóng nảy bộp chộp, tính “tự do”. Anh Sinh thì điềm đạm, ít nói, hay nghĩ ngợi, nên có vẻ già dặn hơn tôi.
Chúng tôi đến tuổi mười tám thì được tin giặc Mỹ ồ ạt kéo vào miền Nam; máy bay Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Anh tôi xung phong tòng quân đợt đầu. Mẹ tôi tiễn anh tôi đi. Có mấy bà mẹ khóc khi chia tay với con, nhưng mẹ tôi không khóc. Mẹ theo anh tôi lên tận địa điểm giao quân ở phố Thẫm, rồi ngồi bỏm bẻm nhai trầu, nhai nhiều hơn ngày thường. Đấy là dấu hiệu mẹ tôi vui lòng. Khi anh tôi lên xe, mẹ tôi chỉ dặn: “Chăm viết thư về cho mẹ, con nhá!”.
Sáu tháng sau, lại có đợt tuyển quân. Tôi đi khám sức khoẻ, đạt tiêu chuẩn. Nhưng ông xã đội trưởng bảo:
- Cậu đã có người anh đi rồi. Còn một mẹ, một con, cậu vào diện tạm hoãn.
Tôi đang háo hức chuẩn bị trở thành anh bộ đội, mặc quân phục, đội mũ, đeo sao, nghe ông xã đội nói thế thì ngớ người ra. Tôi đi một mạch về nhà nói với mẹ:
- Con tuyển được rồi mẹ ạ! Nhưng ông xã đội không cho con đi.
Mẹ tôi không trả lời ngay. Bà nghĩ một lúc lâu rồi nói:
- Các ông ấy chưa cho đi thì con ở nhà!
- Con muốn đi ngay đợt này cơ! Chúng nó được đi cả, mình con ở lại chán lắm!
- Thì đã có anh mày đi rồi!
- Anh con đi, nhưng... anh ấy coi kho ở mãi ngoài này. Đã đi thì phải vào Nam.
Mẹ tôi nhón miếng trầu nhai chầm chậm. Thế là mẹ tôi đang phải nghĩ ngợi đấy. Tôi nói thêm:
- Anh con ở Bắc, con vào Nam là được, mẹ ạ! - Tôi muốn nói: “Có vào Nam mới giết được giặc Mỹ” nhưng nói rõ quá không tiện, tôi chỉ nhìn mẹ như van nài.
Hình như mẹ cho câu nói của tôi là phải. Mẹ bảo:
- Để rồi tao nói với các ông ấy xem sao!
Mẹ tôi nói thế nào không rõ, chỉ biết sau đó có lệnh gọi tôi tòng quân. Rồi mẹ lại tiễn tôi đi. Lần này mẹ nhai trầu rất ít, mẹ vẫn không khóc, nhưng vẻ mặt vốn khắc khổ của mẹ hiện rõ nỗi lo âu, thương nhớ. Đêm trước, tôi biết mẹ tôi không ngủ, vì bà con hàng xóm theo lệ thường, hễ nhà ai có người tòng quân là đến trò chuyện, dặn dò. Khách khứa ra vào đến lúc nửa đêm. Tôi đi ngủ, mẹ vẫn lục sục dưới bếp, nấu cơm nếp lạc, gói lá chuối để mai tôi mang theo đi ăn đường.
*
Anh tôi vẫn ở ngoài Bắc. Tôi hành quân vào Nam. Lúc ấy có một khẩu hiệu mà dọc đường đi tôi thường gặp, nó giục giã, thôi thúc đến nao lòng.
Giặc đang bắn giết đồng bào,
Phải mau tới đích, phải vào tới nơi!
Khẩu hiệu ấy nhắc cho tôi nhớ lại chuyện bố tôi bị giặc bắn. Chuyện mà mẹ tôi vẫn kể lại hằng năm, mỗi khi đến ngày giỗ bố tôi. Tôi muốn vào chiến trường để tự tay mình nã súng vào đầu giặc, trả thù cho đồng bào, cũng là trả thù cho bố tôi.
Tôi được bổ sung vào sư Chín, đoàn Đồng Xoài. Đặt chân vào chiến trường chưa đầy tuần trăng, tôi gặp một sự rủi ro và phải ân hận mãi mãi về sau.
Hôm ấy, cách chỗ đóng quân của đơn vị tôi chừng hai ki-lô-mét, một kho quân nhu của địch bị pháo ta bắn trúng. Địch bỏ chạy, để lại nhiều thứ. Nhưng lệnh trên không cho phép bộ đội ta tự động sang thu nhặt, đề phòng địch bất chợt quay lại phản kích. Tôi để ý thấy có những anh em đơn vị bạn vẫn tự động “đánh lẻ” đưa cả gạo, thịt hộp, võng dù, bi đông về. Vậy là máu “tự do” của tôi nổi lên. Tôi bàn với Kịu và Nhượng bí mật đi làm một chuyến về cải thiện. Buổi trưa, khi anh em đơn vị nghỉ, ba chúng tôi giả vờ đi săn, mang theo súng đạn, xuyên qua rừng săng lẻ.
Kho quân nhu của địch nằm cạnh sông Măng, âm ỉ đùa lên những đám khói mỏng. Chung quanh im lìm, nền trời vẩn mây... Chúng tôi men bờ sông lên, vừa lọt vào khu vực kho thì hàng loạt đạn nổ phía sau. Tôi quay lại, bọn địch đã khép kín lối rút lui. Thì ra chúng tôi bị phục kích. Chúng tôi buộc phải đánh nhau với chúng trong tình thế bất lợi. Tôi là người đầu têu trong chuyến đi này, tự nhiên tôi trở thành người chỉ huy. Chúng tôi dựa vào công sự sẵn có để đánh địch. Tôi ra lệnh:
- Tiết kiệm đạn. Chờ địch sát mặt hãy bắn!
Tôi hy vọng cầm cự được từ trưa đến xế chiều thì giặc phải rút, hoặc may ra đơn vị nghe tiếng súng, cử người đến ứng cứu.
Địch có khoảng một trung đội. Có lẽ chúng đánh hơi thấy chúng tôi đi lẻ nên tổ chức phục kích. Có công sự tốt, chúng tôi lại bắn khá, địch không dám sấn sổ liều mạng. Nhưng chúng biết chúng tôi ít người nên bám sát, chờ chúng tôi hết đạn.
Chúng tôi không được ứng cứu. Vì có ai biết chúng tôi đến đây mà ứng cứu. Chúng tôi dần dần bị vây chặt. Nhượng hy sinh. Kiu bị thương nặng. Địch phát loa gọi chúng tôi đầu hàng. Kiu đỏ mắt bảo tôi:
- Đánh đến cùng!
Tôi nhắc lại: “Đánh đến cùng”. Khẩu súng của tôi dịch lại phía một thằng địch đang bò lên. Nhưng tôi chưa kịp nổ súng thì một quả đạn nổ gần. Bầu trời đang sáng trắng bỗng như tắt phụt, tối sầm. Tôi chỉ còn nghe láng máng tiếng chửi tục tĩu của bọn địch: “Đù má... mấy thằng… Việt cộng... ngoan cố!”.
Tỉnh dậy, tôi thấy mình đã nằm trong một căn phòng tường vôi trắng lóa. Có cả điện sáng. Tôi cựa mình thấy chân bị trói. Tay tôi cộm lên vì bị băng bó. Tôi bàng hoàng nhận ra mình đang nằm trong bệnh xá của địch.
Những ngày ở bệnh xá qua rất nhanh, chúng tôi phải vào trại giam. Địch tra tấn Kiu và tôi. Chúng tôi nghiến răng chịu mọi đau đớn, không khai báo. Nhưng địch biết họ tên chúng tôi, vì mỗi người còn bỏ túi một lá thư cuối cùng của gia đình gửi cho.
Chúng dùng thủ đoạn vừa hại chúng tôi, vừa đánh vào tâm lý anh em đơn vị tôi. Chúng bắt chụp ảnh, chúng tôi cố ý nhăn nhó để chúng không đạt được ý định. Chúng phải chụp lại, chụp bất chợt khi chúng tôi bị thẩm vấn, khi chờ phát thức ăn. Cuối cùng chúng vẫn chọn được một kiểu ảnh coi được. Chúng in ảnh lên truyền đơn, in họ tên chúng tôi, rồi nói là chúng tôi đã bị chiêu hồi.
Anh em đơn vị tôi không rõ chúng tôi ở đâu. Chắc là khi nhận được truyền đơn, mới biết chúng tôi hiện ở trong tay địch. Cái tin chúng tôi bị chiêu hồi cứ thế truyền đi.
Hành hạ chúng tôi cả về thể xác lẫn tinh thần không moi được điều gì, địch đày ra Côn Đảo. Sống trong nhà ngục, giữa bốn bề biển cả mênh mông, tôi càng đau khổ. Thế là ý định của tôi vào chiến trường, trực tiếp đánh giặc để trả thù cho đồng bào, cho bố không được thực hiện. Cái trận chiến đấu mà tôi bị thương ấy chẳng vẻ vang gì, vì nó là hậu quả của tội tự do vô kỷ luật. Tôi không hiểu cái trò chiến tranh tâm lý của địch ngày ấy đã làm cho bao nhiêu đồng đội của tôi hiểu lầm, thậm chí chửi rủa tôi, tuy rằng họ đã ít nhiều biết âm mưu của chúng.
Nằm trong ngục gần chục năm trời, tôi thấy đời mình chả khác gì vật vô dụng. Thù nhà, nợ nước chưa trả được. Tôi càng xót xa ân hận về cái tội tự do vô kỷ luật của mình. Biết bao giờ tôi mới ra khỏi nhà tù để làm lại những điều mà tôi chưa làm được và để tôi sửa cái tật xấu của mình.
Rất may là ở trong nhà tù cũng có sự lãnh đạo của Đảng. Tôi và Kiu hăng hái tham gia những cuộc đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù. Hôm ấy, có một người tù đang chặt cây theo lệnh của địch thì bị gãy cán rìu. Thằng cai tù cho anh là người phá hoại, lãn công. Nó tát anh một cái ngã chúi. Kiu kịp đỡ anh dậy. Tôi nóng mắt, xông lại túm ngực tên cai. Tôi toan tát cho nó một cái, nhưng chợt nhớ lời dặn của bác Năm Hiên - sau này tôi mới biết bác là đảng viên - rằng: “Không nên manh động, để địch lấy cớ khủng bố anh em tù!”. Tôi chỉ vào mặt tên cai:
- Phải chừa cái thói đánh tù đi. Chúng tôi không phải là người không biết đánh lại đâu!
Ở tù, chúng tôi được thông báo tin tức không nhiều, nhưng cũng biết được ta và địch vẫn ở trong thế giằng co. Đến sau Tết Mậu Thân thì biết ta mới đánh cho địch một đòn rất nặng...
Vết thương ở cánh tay tôi gây ảnh hưởng xấu tới ngón tay, có thể do gân bị tổn thương. Mấy ngón tay bóp cò súng đều bị cứng đờ. Tôi tập co, duỗi, rồi xoa bóp đều đặn cho ngón tay cử động bình thường. Phải bền bỉ luyện tập đến một năm, tay tôi mới trở lại gần như cũ. Một đêm tôi nằm mơ quân ta đổ bộ lên đảo. Chúng tôi làm nội ứng từ trong ngục. Dưới sự chỉ huy của bác Năm Hiên, tôi rất tuân thủ kỷ luật. Địch bị thua. Bọn chúa ngục bị giết sạch. Tôi mừng lắm... Nhưng khi tỉnh dậy mới biết chỉ là giấc mơ. Rồi năm tháng cứ nặng nề trôi đi. Tôi vẫn là kẻ bị tù đày. Đồng đội tôi có người ốm nặng và phải ra nghĩa địa.
Cho đến ngày chúng tôi được tin miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bọn ác ôn, chúa ngục hết hung hăng. Anh em tù nhảy lên reo hò sung sướng. Rồi tàu của ta ra đón chúng tôi về đất liền. Từ trong tù ngục được về với cuộc sống tự do, ai cũng vui mừng. Riêng tôi thì vừa vui mừng, vừa chua xót. Thế là gần chục năm xa mẹ, xa quê, thì tôi ngồi tù cũng gần chục năm đó. Đã thế, tôi còn làm cho đơn vị bị ảnh hưởng xấu vì có người chiêu hồi...
*
Những lần đấu tranh trong nhà tù đã đem lại cho tôi một vinh dự mà lúc ấy tôi không nghĩ tới. Các đồng chí lãnh đạo đảng bộ trong nhà tù đã coi tôi là một trong những người đấu tranh bền bỉ, đúng hướng. Tôi và Kiu được xác nhận không phải là kẻ chiêu hồi.
Được an dưỡng như nhiều đồng chí khác, tôi phục hồi sức khoẻ nhanh. Rồi tôi được trở về quê hương.
Chỉ có gần chục năm không nhìn thấy mẹ, nay gặp lại, tôi không tưởng tượng được là mẹ tôi già nhanh đến thế. Mới năm chục tuổi mà tóc mẹ đã trắng quá nửa, đôi mắt luôn luôn lộ rõ vẻ đau buồn. Nghe tin tôi về, mẹ tôi tất tả ra tận đầu làng để đón. Nhìn thấy tôi, mẹ tôi giàn giụa nước mắt. Bàn tay gầy guộc của mẹ xoa nhẹ vào cánh tay, vào lưng tôi. Tôi cũng xúc động, nói lạc cả giọng, nhưng vẫn cười để mẹ tôi vui.
Tối hôm ấy, bà con xóm giềng lại đến tụ họp ở nhà tôi để vui cùng với mẹ tôi. Ai cũng khen tôi khỏe, chỉ có đen hơn ở nhà.
Đã hơn mười giờ, bà con về nghỉ. Mẹ tôi xuống bếp bưng lên một xoong cơm nếp lạc, là thứ tôi rất thích ăn từ hồi ở nhà, mẹ xới cho tôi một bát, rồi ngồi ngắm tôi ăn ngon lành. Đôi lúc tôi giục: “Mẹ cũng ăn đi chứ!”, mẹ mới nhón vài hạt lạc, nhai nhai để chiều lòng tôi. Mẹ vui quá nên không ăn được.
Khi tôi cầm tăm, tựa lưng vào tường nhà, xỉa răng thoải mái, mẹ tôi mới chậm rãi kể:
- Cái dạo có tin mày bị giặc nó chiêu hồi chiêu vía gì ấy, người ta cứ đồn ầm cả lên. Nào là bà Thông có thằng con vào Nam đi theo giặc rồi! Nào là huyện sẽ về thu bảng Gia đình vẻ vang. Nào là hợp tác xã sẽ cắt phần thóc ưu tiên... Mẹ nghe mà ruột như đứt ra từng khúc. Nhiều đêm không ngủ được, chỉ nằm mà khóc một mình. Mẹ không dám hé răng nói với ai về nỗi khổ tâm ấy được. Thấy mẹ gầy rạc đi rất nhanh, các cụ trong Hội Mẹ chiến sĩ đến an ủi: “Thôi, bà không phải lo nghĩ gì nhiều cho tổn thọ. Sinh con chứ ai có sinh lòng. Nó hư hỏng là tại nó, chứ có phải bà xui nó làm vậy đâu”. Các cụ còn đến nói với ông chủ nhiệm: “Thằng Đôi hư hỏng thì nó chịu tội. Còn mẹ nó già yếu, anh nó tại ngũ, các ông vẫn phải giúp đỡ”. Ông chủ nhiệm nói: “Để chúng tôi bàn bạc, nhưng sự đời “con hư tại mẹ” đấy các cụ ạ!”.
Mẹ tôi ngừng lại bưng chén nước nhấp giọng. Tôi không ngờ chuyện của tôi lại gây đau khổ cho mẹ tôi đến thế. Tôi cứ ngậm tăm mà nghe, quên cả xỉa răng.
- ... Ròng rã bao nhiêu năm giời mẹ ngậm đắng nuốt cay vì câu chuyện ấy. Cũng may sự đồn đại bàn tán chỉ rộ lên một thời gian, rồi người ta cũng bỏ qua. Nhưng mẹ thì chẳng làm sao bỏ qua cho được, nó giống như trong người mình có bệnh nặng, chỉ có mình biết, mình khổ mà thôi... Cũng may còn thằng Sinh làm chỗ cho mẹ dựa dẫm. Mỗi khi nhận được thư nó, mẹ đều nhờ cô Cải, cán bộ đoàn đọc cho nghe. Cũng là để cô ấy biết nó đã vào Quảng Bình, Vĩnh Linh, nó vẫn chịu đựng gian nan nguy hiểm, chứ không như thằng em nó...
Càng nghe mẹ nói, tôi càng nghĩ tới câu tục ngữ “Cái sảy nảy cái ung”. Chỉ một việc làm tự do vô tổ chức, chỉ một cái sai hám ăn của tôi, dẫn tới tôi bị bắt, đồng đội bị chết, tôi bị mang tiếng là đầu hàng giặc, bị giặc bỏ tù, và dẫn tới cho mẹ tôi đau khổ bao nhiêu năm trời như thế... Tôi nhìn trộm mái tóc bạc quá nửa và đôi hố mắt sâu của mẹ. Đây là kết quả của sự đau khổ mà tôi đã đem lại cho mẹ tôi. Nước mắt tôi bỗng ứa ra. Tôi nằm xuống để mẹ khỏi trông thấy tôi khóc.
*
Nửa năm sau, anh Sinh tôi được phục viên. Anh mang về hai tấm huân chương và một bằng khen của thủ trưởng sư đoàn. Tôi mua khung kính về lồng ba tấm bằng và treo ở gian giữa. Cái bảng Gia đình vẻ vang có ghi tên tôi dưới tên của anh Sinh, mất một dạo mẹ tôi phải cất đi, nay tôi đưa ra treo lại. Nhưng chỉ có mẹ và anh tôi vui trước những phần thưởng cao quý ấy. Còn tôi, nhìn thấy chúng tôi lại thấy nỗi ân hận trào lên. Tôi thấy tuổi thanh xuân của tôi đã trôi đi một cách vô ích. Không hiểu tôi sẽ làm gì để bù đắp vào cái lỗ hổng sâu thẳm ấy?
Nỗi ân hận khiến cho tôi nhiều lúc không làm chủ được mình. Tôi sinh ra cáu gắt bất chợt, kể cả những lúc chẳng có lý do để cáu gắt. Anh tôi lấy vợ, rồi có con. Tôi có thể được như anh tôi, nhưng tôi vẫn không yên tâm nghĩ nhiều về chuyện ấy.
Cho đến một ngày, đài phát thanh truyền về cái tin đối phương đem quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. Rồi toàn thể anh em bộ đội phục viên huyện tôi được triệu tập về họp. Gần năm trăm người thuộc diện trẻ, khỏe, có thể tái ngũ gặp nhau tại một hội trường rộng.
Trong không khí khẩn cấp, trang nghiêm, đồng chí thiếu tá, chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự huyện, quân phục chỉnh tề, thông báo cho chúng tôi tình hình đất nước lại có họa xâm lăng. Đồng chí kêu gọi chúng tôi tái ngũ, đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
Mấy ngày trước, chúng tôi theo dõi tin tức rất sát. Những chiến công từ tuyến đầu biên giới phía Bắc được truyền về khiến chúng tôi náo nức, và những tội ác của giặc gây ra đối với đồng bào làm chúng tôi căm phẫn. Chúng tôi đồng loạt giơ tay xin tái ngũ.
Trên đường về nhà, tôi nói với anh tôi:
- Anh Sinh ạ! Nếu chuyến này trên gọi cả hai, thì anh em mình cùng đi. Nhưng nếu chỉ gọi có một, thì anh để em đi trước nhá!
Anh tôi ngồi sau xe chưa trả lời ngay. Có lẽ anh cũng đang mải suy nghĩ. Tôi nói tiếp, giọng chân thành:
- Là vì em đã bỏ phí mất gần chục năm trời. Em rất ân hận. Được tái ngũ lần này, em có dịp bù đắp lại những năm tháng đã bỏ phí ấy!
Vẫn cái tính ít nói, anh chỉ ờ... ờ... để tỏ ra chăm chú nghe tôi, hay là nhất trí với ý kiến tôi thì không rõ.
Thế rồi, qua hai ngày tôi chờ xem nguyện vọng của tôi có đạt hay không. Tôi chờ mong như thí sinh chờ ngày báo điểm thi. Và tôi đã nhận được lệnh tái ngũ đợt đầu. Trong số năm trăm người họp hôm ấy chỉ mới gọi đi có một đại đội.
Thế là tôi theo đơn vị hành quân lên biên giới. Mẹ tôi lại đưa tiễn tôi đi. Mái tóc mẹ tôi trắng xóa in trên nền trời mây mưa vần vũ. Tôi cứ ngoái lại nhìn dáng mẹ và thầm nghĩ mái tóc mẹ đã bạc vì tôi...
Mẹ ơi! Khi thắng giặc con về tóc mẹ có xanh lại như hơn mười năm về trước hay không?