Đơn vị chúng tôi và trung đội du kích tập trung của huyện Tam Bình cùng hoạt động trên một địa bàn, cùng chung một nhiệm vụ: tiêu diệt sinh lực địch, hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy, phá ấp chiến lược, đập tan âm mưu bình định. Chúng tôi ở vùng giáp ranh này đã gần hai năm. Trung đội du kích giúp chúng tôi nắm tình hình, hỗ trợ khi tải đạn, chuyển thương. Trung đội hầu hết là những cô gái mười tám, đôi mươi. Trẻ nhất như Sáu Loan, Út Chín cũng đã mươi lần nổ súng chạm trán với địch. Người dày dạn như Bảy Hoa bốn lần đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ; Năm Thông bắn cháy mười ba xe tăng địch.
Trong số các cô gái, Út Chín là người gầy yếu hơn cả. Gương mặt trái xoan, đôi lông mày thưa mờ, da trắng như sáp. Chín có cái dáng như cô giáo, hay một y tá ở phòng xét nghiệm, chứ không phải là một đội viên du kích. Tôi nghĩ, Út Chín chỉ có thể vác nổi khẩu AK theo sau đồng đội làm các việc nhỏ nhẹ. Đã thế, Út Chín lại khắt khe với chúng tôi. Cánh lính trẻ chúng tôi xa quê, xa gia đình, thiếu tình cảm. Vài ba cậu, trong đó có tôi, thường lân la đến với trung đội du kích, trò chuyện với mấy cô vui tính. Nhiều lúc chúng tôi có phần tếu, nói năng thiếu giữ ý, làm cho mấy bà má không bằng lòng. Các bà thương chúng tôi nên chỉ cho là lỗi tại mấy cô gái con cháu mình. Các bà mách Út Chín, Út Chín đưa mấy cô ra phê bình tại cuộc họp.
Chín phê chị em đôi ba lần không chuyển, vì anh em chúng tôi cứ tự động tìm sang trò chuyện với mấy cô. Mấy cô thì nể các anh giải phóng từ Bắc vào, không nỡ ghìm mối quan hệ xem ra chưa có gì là xấu. Thế là với cương vị Bí thư Chi đoàn, Út Chín sang gặp thủ trưởng đơn vị tôi. Út Chín viện lẽ: “Chuyện cứ như bây giờ thì chưa có gì đáng trách. Nhưng quan hệ nam nữ như lửa với rơm. Mà trong số chị em đang thân mật với bộ đội lại có người dân tộc. Không cẩn thận thì đồng bào có ý nghĩ không hay về bộ đội”.
Thế là trung đội trưởng cạo nhẹ cho chúng tôi một trận, nhẹ nhưng cũng đủ nhớ lâu. Chúng tôi thấy được uốn nắn như vậy là phải, nhưng vẫn trách Út Chín là người khó tính, khô khan, thiếu tình cảm. Gặp Út Chín, tôi lờ đi, không chào hỏi.
Rồi một hôm, tôi và đồng chí liên lạc đi nhận thêm đạn, chuẩn bị cho trận đánh sắp tới. Chúng tôi đến một trạm khách nhỏ đặt cạnh bờ sông. Cây cối ở đây mọc dày và xanh, như một khoảng rừng nho nhỏ. Nhiều cây, vỏ sần sùi những vết đạn đã liền da, chỗ vàng nhạt xen lẫn chỗ xanh, như hàng cột được chạm trổ. Bên cạnh vết đạn, những nhành lá nảy lên xanh non, mềm mại. Chúng tôi nghỉ đêm ở trạm. Đang ngủ, tôi mở choàng mắt vì có tiếng ồn ào phía bờ sông. Đoán có chuyện không lành, tôi và đồng chí liên lạc lao ra. Ba bốn người đang xúm quanh một cô gái nằm trên bãi cát. Chợt nhận ra tôi, một cô gọi to:
- Anh Cần! Mau lên, con Chín nó sắp chết đuối rồi!
Mấy cô gái có vẻ quen cứu người bị ngạt vì nước. Họ xốc Chín cho đầu dốc xuống, làm mấy động tác sơ cứu thông thường. Rồi họ cùng chúng tôi thay nhau hà hơi thổi ngạt cho Chín.
*
Tiểu đội của Chín được cử đi lấy đạn ở cứ. Ngày nghỉ, đêm đi để che mắt địch. Chị em khoẻ, nhưng ai nấy đều mệt. Chín mệt hơn vì thể lực yếu. Đưa đạn về đến bờ sông thì trời gần sáng, Chín động viên chị em cố gắng chuyển đạn qua sông và gửi ngay vào trạm khách cho khỏi lộ.
Con sông không rộng nhưng sâu. Trời gần sáng, sao thưa và nhạt chiếu xuống dòng sông tạo nên cảnh mờ mờ ảo ảo, gây cảm giác sờ sợ cho những người yếu bóng vía. Ở đây ít thấy cá sấu, nhưng nghe các cụ già nói thì có khi bất thình lình từ thượng lưu có một con theo nước bơi xuống. Có con cá sấu to bằng tấm phản, mồm ngoác ra đớp gọn cả hai chân người. Hai hàm răng sắc lởm chởm nhọn hoắt cứ nhay nhay ngang lưng người ta cho nát dần rồi nuốt chửng. Chưa ai trông thấy cảnh đó, nhưng chỉ nghe đã phát hoảng.
Trên sông không có thuyền bè nào đậu. Chỉ có cái cầu cao chênh vênh bắc ngang. Thân cầu là ba cây dừa lâu năm, vừa cứng, vừa dài, gối đầu lên sáu trụ bằng tre cây cắm bắt chéo. Cầu có tay vịn để người qua lại đỡ sợ.
Chín chờ chị em lần lượt vác đạn qua cầu, rồi mình sang sau. Mỗi người vác hai chuyến. Chín sang chuyến thứ nhất. Chiếc cầu kêu cọt kẹt dưới chân, Chín cảm thấy như có nhịp cầu nào muốn gãy. Càng ra giữa, nhìn xuống sông, Chín càng thấy chóng mặt. Trời! Sao lúc này cái cầu cao thế, cứ như cầu vồng trong chuyện âm phủ mà bà cụ hàng xóm kể cho Chín nghe hồi nhỏ. Ở dưới kia, con sông sao mà sâu thế, Chín lại không biết bơi như chị em.
Chín tự như mình phải bạo dạn lên, sợ quá sẽ rủn chân tay mà ngã. Nhưng Chín vẫn không làm chủ được mình. Chín không sợ, nhưng Chín quá mệt. Đã ba đêm liền mang nặng, đi xa. Ra tới giữa cầu, thì Chín không làm chủ được đôi chân mình nữa. Đầu gối bủn rủn, chân Chín tuột khỏi cầu. Chín vội buông tay vịn, ôm chặt lấy hòm đạn, mặc cho mình lăn xuống sông. Chín chỉ kịp kêu “Cứu tôi với!” rồi chìm nghỉm.
Loan và Sáu sang trước đã ngồi nghỉ được một lúc. Thấy tiếng kêu, hai cô vội lao xuống sông. Vốn người ở vùng này, hai cô rất biết dòng sông và thạo bơi lội, hơn nữa còn biết cách cứu người bị đuối nước.
Chín mím chặt môi, mũi thở phì phì để nước khỏi vào miệng, vào mũi. Tay Chín vẫn ôm chặt hòm đạn. Chín tin là chị em sẽ xuống cứu mình. Cứu được Chín thì cứu được cả hòm đạn.
Chẳng nín thở được lâu, Chín bị nước xộc vào mũi, vào miệng. Chín không chịu nổi nữa. Chín thấy mình đang chìm xuống sâu hơn, nước buốt đến kinh người. Nhưng có một cái gì húc vào lưng Chín. Chín nổi lên mặt nước, kịp há miệng thở một chút. Rồi hòm đạn nặng lại kéo Chín chìm xuống. Lại có cái gì húc vào lưng Chín. Chín lại nổi lên mặt nước. Chín nghe loáng thoáng: “Đỡ lấy hòm đạn!”.
Có bàn tay nào đỡ lấy hòm đạn. Chín buông ra. Lại một cái húc vào lưng. Và cứ như thế, Chín được Loan dùng đầu mình đẩy qua chỗ sông sâu.
Loan dìu Chín lên bờ. Chín đã uống khá nhiều nước. Chín ngất đi vì kiệt sức.
Được cấp cứu kịp thời, Chín tỉnh dậy và vào trạm khách nghỉ ngơi. Khi Chín ăn được bát cháo, Loan trách:
- Sao mày không bỏ hòm đạn ra! Tao đẩy được mày lên một tí, lại chìm ngay xuống. Có bữa chết mất ngáp đấy!
Chín trả lời:
- Bỏ ra cho nó chìm mất à?
Sông sâu, bỏ hòm đạn ra có thể mất vì không ai biết lặn. Hòm đạn về được tới đây là đã phải tốn bao nhiêu công sức, có khi đổ máu. Hơn nữa, trận đánh quan trọng đã đến, thiếu đạn là điều không thể cho phép. Chín nghĩ giản đơn như vậy. Sau sự việc ấy, tôi bắt đầu thay đổi cách nghĩ về Chín. Tôi dò hỏi chị em về gia đình Chín.
Chín mới mười tám tuổi. Ba Chín mất khi cô ra đời vừa tròn một tháng. Ông để lại hai người con dại cho má Chín. Má Chín phát điên và đau ốm kiệt quệ, Chín phải bú nhờ mà sống. Anh Hai, người hơn Chín một tuổi lúc ấy cũng qua đời. Năm Chín lên mười tuổi, má Chín bị tù vì tội đi theo cách mạng. Hằng ngày Chín phải xách cơm vào nhà tù cho má. Bà bị chúng đánh què chân, què tay. Chín đứng ngoài song cửa nhà tù khóc cho đến khi mẹ kéo xoong cơm bò lê vào tận trong khám, mới quay về. Những ngày đau khổ ấy đã làm Chín cứng cáp và tự lập trong cuộc sống. Lớn lên, Chín tình nguyện vào đội du kích.
*
Vài đêm sau, chúng tôi tập kích vào một căn cứ của địch trong quận lỵ Tam Bình. Người dẫn đường là Út Chín.
Vào gần đồn địch thì gặp một tình huống bất ngờ, Chín đau bụng đột ngột. Đơn vị ai cũng lo lắng. Đoạn đường gần đồn địch chỉ có Chín nắm chắc chỗ nào chúng gài mìn định hướng, pháo hiệu, chỗ nào mìn clây-mo... Các đồng chí cán bộ suy nghĩ rồi quyết định cử hai chiến sĩ khiêng Chín về quân y cấp cứu. Đơn vị tiếp tục hành quân, đội hình giãn thưa ra. Giữa lúc ấy, Chín gượng đứng dậy:
- Ta đi thôi các anh!
Qua ánh sáng đèn dù, nhìn dáng người của Chín, tôi biết cô còn đau. Tôi bảo:
- Chín phải về điều trị!
- Không, em không về!
- Lỡ ra làm sao...
- Em đỡ rồi, đi thôi!
Nói xong, Chín bước dấn lên và giục chúng tôi:
- Khẩn trương đi các anh!
Đêm về khuya, sao sáng, vòm trời như đẩy lên cao hơn. Gió từ bờ sông Cổ Chiên tràn lên khua hàng dừa xào xạc. Dọc theo bờ sông, từng chùm pháo sáng địch chấp chới rồi theo nhau lụi dần. Tiếng phản lực thỉnh thoảng lại gầm lên. Tiếng máy bay trinh sát vè ve cầm canh.
Lệnh nổ súng, các mũi tiến công của ta ào lên. Trong ánh chớp lằng nhằng của đạn, Chín như con thoi lao đi. Một dáng người nhỏ nhắn, thoăn thoắt băng qua hết lô cốt này đến đường hào khác. “Kia sở chỉ huy, đây khu điện đài, trước mắt là dãy nhà lính...”. Theo sự hướng dẫn của Chín, chúng tôi lướt như cơn gió. Trong nửa giờ, toàn bộ căn cứ địch đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Lúc anh em đang truy lùng những tên địch chạy trốn, tôi bị trúng một mảnh pháo. Vết thương nhẹ, nhưng vào chân, không đi được. Chín vội băng bó cho tôi.
Bị mất căn cứ, địch câu pháo huỷ diệt trận địa. Tiếng nổ ầm ầm, bụi khói mù mịt. Tôi nằm áp người sát đất tránh đạn. Chín đang loay hoay với cuộn băng, thì tiếng xoèn xoẹt xé trên đầu. Một tiếng nổ như sét đánh, loá mắt. Chín nằm ngay xuống che cho tôi. Qua ánh lửa lập loè, tôi nhìn rõ một dòng máu từ má Chín chảy xuống. Tôi tháo băng cá nhân băng cho Chín. Tôi biết mảnh đạn ấy đáng lẽ xuyên vào người tôi. Nhưng Chín không muốn tôi bị thương lần thứ hai. Ngay hôm ấy, tôi và Chín được chuyển về K54 điều trị. Về sau, nói chuyện này, Chín bảo:
- Lúc ấy, em thương anh quá. Tự nhiên em thấy mình chẳng sợ gì hết!
Sau khi lành vết thương, tôi chuyển đến một đơn vị mới ở bên Tây Ninh. Năm tháng trôi đi, tôi vẫn khao khát được trở lại Vĩnh Trà, thăm mảnh đất Tam Bình, thăm bà con, thăm Chín.
Đầu Xuân 1975, sau khi dự xong lớp tập huấn, tôi và một số cán bộ lại nhận quyết định bổ sung về Phân khu Bảy, Mặt trận miền Tây Nam Bộ. Ở bộ đội, thuyên chuyển nay đây mai đó là chuyện bình thường. Nhưng đối với tôi, được về Phân khu Bảy, tôi phấn khởi hết chỗ nói. Ôi, Vĩnh Trà, tôi lại được vào Vĩnh Trà. Tự nhiên những kỷ niệm cũ từ xa xăm bỗng chốc trôi về trong trí tưởng. Những làng xóm thân yêu bên dòng sông Cổ Chiên cứ chập chờn hiện ra. Những đêm thức trắng cùng du kích truy lùng địch trong quận lỵ Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm. Những cô gái trung đội du kích kết nghĩa đã trải qua bao cuộc chiến đấu gian khổ. Và cả tấm lòng thương yêu của bà con khắc sâu trong lòng chúng tôi không bao giờ quên được.
Chân ướt chân ráo về đơn vị, bọn tôi lao ngay vào chuẩn bị cho chiến dịch. Nhiệm vụ của tôi nặng nề hơn so với trước. Công việc choán hết cả thời gian, chuyện gặp lại bạn bè, người thân... tôi tạm gác để dành sau ngày chiến thắng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh với những chuyển biến thần kỳ không ai có thể tưởng tượng được. Quân ta tiến ào ạt như thác đổ, đến nỗi địch không kịp chạy. Từ Buôn Ma Thuột, đến Kon Tum, Gia Lai... lần lượt giải phóng. Đơn vị của chúng tôi vùng trong này cũng tập trung tiêu diệt gọn từng cứ điểm của địch, siết chặt vòng vây chuẩn bị cho ngày giờ quyết định. Sau khi đánh dứt điểm chi khu quân sự của địch trên trục đường Trà Ôn, đơn vị tôi được lệnh đánh căn cứ Trụ Kính sát thị xã Trà Vinh, nhằm tiêu diệt một phần sinh lực địch, hỗ trợ cho đồng bào nổi dậy. Đúng ba giờ sáng, đơn vị bắt đầu tiến vào đồn địch thì đồng chí liên lạc chạy lại phía tôi:
- Báo cáo, có đồng chí thanh niên xung phong xin gặp Đại đội trưởng!
- Mời đồng chí ấy lại đây!
Lát sau, một cô gái tới. Trời tối đen, tôi không nhìn rõ nhưng đoán là một cô gái nhỏ nhắn. Cô gái nói, cái giọng cứ làm tôi ngờ ngợ:
- Báo cáo đại đội trưởng, bộ phận thanh niên xung phong có mặt!
- May quá, các đồng chí đến rất đúng giờ!
Tôi nói với cô vắn tắt mấy việc cần thiết. Nhận nhiệm vụ, cô vội vã đi ngay. Dưới ánh pháo sáng, bóng cô gái lẫn vào đám người lố nhố phía sau.
Trụ Kính là một căn cứ cửa ngõ thị xã, cánh cửa che mặt của bọn ác ôn đang nằm trong hang ổ, nên chúng phòng bị hết sức kiên cố. Nhiều hầm ngầm ngóc ngách ăn sâu vào sào huyệt của địch. Do vậy, bộ chỉ huy chiến dịch cho chúng tôi một tiểu đội thanh niên xung phong, vừa làm nhiệm vụ chuyển thương, vừa dẫn đường.
Nhưng tình huống diễn biến chẳng ai ngờ tới, ngay cả tôi nữa. Tôi cứ tưởng cái căn cứ này ít ra cũng phải choảng đến hàng buổi, chúng nó mới chịu thua. Ai ngờ, mới nổ súng một chặp, chúng đã tan rã từng mảng. Chỉ một số thằng ngoan cố bắn trả đì đòm một lúc rồi cũng ba chân bốn cẳng tháo chạy. Bọn chúng sợ mất hồn vì tin quân ta tổng tiến công dữ dội ở miền ngoài. Lúc chúng tôi tràn vào khu vực trung tâm căn cứ, chúng kéo nhau lúc nhúc ra hàng.
Trận đánh rất nhanh, thắng lớn, nhưng tôi bị thương. Lúc ấy, trời đã sáng hẳn, những đám khói đạn loãng dần. Vì căn cứ của địch khá rộng nên chúng tôi phải chia từng bộ phận nhỏ đi lùng bắt tù binh và thu chiến lợi phẩm. Tôi và đồng chí liên lạc đi kiểm tra khu vực thông tin, ở phía cái lô cốt cuối đồn. Tôi vào một căn phòng, đồ đạc giấy tờ bỏ đầy mặt bàn. Ở một đầu giường, chiếc quạt máy vẫn quay tít.
Cạnh tủ đứng là cửa một chiếc hầm mở toang hoác, luồn sâu hun hút vào nền nhà. Tôi bảo đồng chí liên lạc:
- Xuống hầm kiểm tra!
Có thể địch không còn dưới hầm, nhưng tôi vẫn lên đạn khẩu súng ngắn và dặn đồng chí liên lạc:
- Phải cẩn thận! Đưa mình thêm quả lựu đạn!
Đồng chí liên lạc đưa tôi quả lựu đạn mỏ vịt, xách súng bước xuống. Dưới hầm đi thẳng người không chạm đầu, hai bên xây xi măng, trên lát gỗ rất kiên cố. Qua một đoạn dài, thấy im ắng, tôi cho rằng không còn địch. Đi một đoạn nữa thấy hầm có hai ngách dẫn vào hai hướng. Chúng tôi mỗi người tiến vào một ngách. Mùi ẩm mốc bốc lên làm tôi ngột ngạt, khó chịu. Khẩu súng trong tay tôi lăm lăm chĩa lên trước. Không có đèn pin, tôi phải bật lửa để soi. Ngọn lửa chỉ lập loè, rồi lại tắt biến. Thế mà cũng đủ cho tôi thấy điện đài, máy móc, hòm xiểng, đồ hộp bày la liệt ở ngách hầm. Bỗng cạch một tiếng phía sau lưng, tôi quay ngoắt lại, chưa kịp né người thì một vầng sáng loá mắt. Mắt tôi tối sầm, rồi ngã vật xuống. Một tên địch ngoan cố bám đu trên trần hầm. Đợi tôi vào, hắn bắn lén một phát. Hắn vớ ngay thùng xăng ở cạnh hầm dốc ra, châm lửa đốt rồi vọt sang một ngách hầm khác. Xăng chảy về phía tôi, lửa cũng bò theo loang loáng. Ngọn lửa liếm sát người bỏng rát, làm cho tôi tỉnh lại. Tôi dồn sức vào hai chân đạp mạnh lên thành hầm cho người tôi lui ra tránh ngọn lửa. Nhưng đôi chân tôi nặng như buộc đá, tôi cố co lại vẫn không nâng lên được. Tôi cố rướn lưng, cong lên để nhích người như con sâu đo, nhưng vừa mới ưỡn ngực, mắt tôi đã hoa lên, tối sầm lại. Một ý nghĩ yếu đuối chỉ kịp lướt nhanh trong đầu tôi: “Thế là hết!”.
Tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên lưng một người nào đó. Người cõng tôi vừa thở, vừa chạy. Tôi nhận ra cả mùi khen khét như lông gà, lông vịt cháy quanh đây. Mặt tôi úp trên một mái tóc dài, tóc vương cả vào cổ tôi. Tôi cố ngẩng đầu lên, rồi khẽ mở mắt. Tôi bàng hoàng khi thấy mái tóc của cô gái đã cháy một phần. Chắc là cô đã lao vào lửa cứu tôi.
Cõng tôi đến một căn nhà, đặt xuống giường, cô gái nhìn như xoáy vào mặt tôi.
Trời! Tôi đã gặp ở đâu khuôn mặt trái xoan trắng như sáp, với đôi lông mày lưa thưa mờ mờ này. Có phải là... Không? Lẽ nào lại có sự may mắn như vậy! Ôi! Nhưng kìa, chiếc sẹo nhỏ trên má! Chiếc sẹo làm cho tôi không lẫn được. Tôi chưa kịp kêu lên thì từ khoé miệng tròn tròn, tươi nhỏ của cô gái đã bật ra tiếng gọi:
- Anh Cần!
“Trời ơi! Đúng rồi!”, nước mắt tôi tự nhiên rưng rưng. Tôi thốt lên:
- Út Chín! Sao Chín lại ở đây?
- Em đi thanh niên xung phong mà! Hồi đêm, nghe tiếng quen quen, em chợt nghĩ đến anh, nhưng lại e không phải.
Chín ngập ngừng rồi hỏi tôi:
- Anh vô lại trong này lâu chưa?
- Mới vừa rồi!
Chín ngồi xuống cạnh giường rồi kể:
- Hồi đó, các anh chuyển đi hết, tụi nó làm dữ quá. Chúng dồn hết bà con mình vào ấp chiến lược. Trung đội du kích chúng em, một số chuyển sang thanh niên xung phong. Em cũng đi đợt đó. Thế mà đã ba năm rồi anh nhỉ?
- Lâu nay em có về thăm gia đình không?
Tôi buột miệng gọi Chín bằng em. Chín khẽ cười, đôi má hồng lên, mặt hơi cúi xuống:
- Có, thỉnh thoảng em có về!
- Má có khoẻ không?
- Dạ, vẫn khoẻ. Má mong anh về thăm gia đình lắm đó. Cả bà con nữa, ai cũng mong tin các anh!
Tôi không ngồi dậy được. Đùi của tôi đã quấn băng dày cộm, cẳng chân thẳng ra cứng đờ. Chín lau những vết nhọ trên mặt tôi, khẽ nói:
- Chúng em chia nhau đi tìm kiếm thương binh. Vừa đến khu vực thông tin thì nghe tiếng súng nổ bên dưới. Em xông ngay xuống hầm, thấy lửa cháy dữ quá. Cạnh đám lửa là một người mặc quân phục đằng mình. Em lao ngay vào cứu.
Tôi đã hiểu ra mọi chuyện. Không ngờ cô gái mà tôi cho là khắt khe, khó tính, đã hai lần cứu tôi. Tôi ngắm Chín. Vết sẹo nhỏ trên má, và một phần mái tóc đen dài của Chín đã cháy vì cứu tôi.
Chín đỡ cho tôi lên cáng để chị em tải đi. Còn Chín thì lại xông xáo trên căn cứ còn nóng bỏng lửa đạn.
Tôi nằm trên cáng, nhưng đầu óc vẫn nghĩ về Chín. Giải phóng Vĩnh Trà xong, thế nào tôi cũng đến thăm gia đình Chín, chào bà má của Chín, người đã khổ hạnh suốt đời để nuôi dưỡng nên Chín - một cô gái vẻ ngoài thì khắc khổ, nhưng tấm lòng thì đôn hậu, thuỷ chung.