Con đường mòn dẫn tới buôn Trát có đoạn ngoằn ngoèo lượn ven hồ Lắc. Gió lướt qua mặt hồ dồn thành những lớp sóng lăn tăn. Những cụm bèo bản lá xanh, hoa phơn phớt tím, nhấp nhô bập bềnh. Hai con chim nho nhỏ vừa đuổi nhau trên mặt hồ, vừa kêu liếp chiếp. Một chiếc thuyền đánh cá nhỏ trên đường về nghỉ. Vợ chồng người Ê Đê ngồi trên thuyền, anh chồng cặm cụi giặt lưới, chị vợ nhịp nhàng rướn người về phía trước, tay đẩy mái chèo.
Hòa ngồi dưới bóng một khóm chuối, lá xòe rộng, xanh mát. Cảnh bình yên trên mặt hồ khiến Hòa tỉnh táo sau buổi họp căng thẳng ở huyện. Cảnh lao động hạnh phúc của vợ chồng người đánh cá khiến Hòa nghĩ đến cảnh riêng của mình.
Hòa từ một làng quê đồng bằng Bắc Bộ vào đây đã gần chục năm. Bố mẹ Hòa bị tàn sát trong một trận bom giặc Pháp ném trúng hầm. Lúc ấy, Hòa theo bạn đi chơi nên sống sót. Khi lên đường đánh Mỹ, Hòa không bịn rịn về chuyện gia đình như nhiều người khác, chỉ có Sim - cô gái mười tám tuổi, người cùng xóm, là bạn thân nhất của Hòa. Sim đang học trường Cao đẳng Sư phạm. Trước hôm Hòa đi, Sim ngồi với Hòa bên bờ ao làng. Hôm ấy trăng tròn vành vạnh in xuống mặt nước phẳng như gương. Chuyện chẳng ra đầu ra đuôi, có lúc chỉ ngồi nhìn nhau mà không nói, nhưng cả Hòa và Sim đều hiểu, đây là giờ phút gần gũi nhau lần cuối, rồi mai sẽ xa nhau. Có một điều rất cần nói ra là sự yêu thương, nhưng cho đến lúc đứng lên, vẫn chưa ai nói ra điều đó. Không nói mà đều cảm thấy rõ ràng, hơn cả nói thành lời.
Hòa tòng quân. Sáu tháng luyện tập ở miền Bắc, Hòa nhận đều đặn thư của Sim. Thư Sim viết dài, kể lể mọi chuyện về học tập, ăn ở của mình. Và có một ý mà Sim nhắc đi nhắc lại trong thư là Sim sẽ thủy chung chờ đợi Hòa. Vì vậy, hôm hành quân vào đến Quảng Bình, Hòa nghỉ chân ở bên rừng, đặt tờ giấy lên đầu gối, viết vội cho Sim mấy dòng nguệch ngoạc.
Rồi Hòa theo đơn vị vào tới vùng ven sông Krông Ana. Thời kỳ đầu, thế địch còn mạnh, đơn vị của Hòa bí mật trụ ở rừng, rồi lấn dần ra một số buôn lân cận, gây cơ sở trong đồng bào Ê Đê, Mơ Nông. Sau đó đơn vị được lệnh qua sông sang huyện Lắc. Mũi tiến công của trung đội Hòa có nhiệm vụ vượt cầu Giang. Đang vượt cầu thì một quả đại bác nổ, hất Hòa xuống sông. Dòng Krông Ana đang mùa lũ, nước chảy réo dưới chân cầu, cuồn cuộn cuốn trôi Hòa đi. Hòa biết bơi nhưng bị thương, không đủ sức chống chọi với nước lũ. Hòa chỉ cố nằm ngửa ra, dang hai tay để lái cho mình khỏi bị chìm.
Hòa bị cuốn trôi cách cây cầu rất xa, và cuối cùng dạt vào một cánh bãi rộng. Phù sa láng dày trên bãi phủ kín cả một thảm cỏ xanh. Hòa nằm ngửa trên bãi một lúc thì nước rút bớt. Hòa cố ngồi dậy mà không được, vì hai vết thương ở mông và ở má chưa được băng bó, bị nước ngấm buốt như bị liềm cứa.
Hòa chẳng biết đây là nơi nào, nhưng chắc chắn là vùng bị địch khống chế. Sờ thắt lưng, Hòa thấy chỉ còn vẻn vẹn một quả lựu đạn. Hòa nghĩ, nếu địch đến đây, Hòa sẽ cùng chết với chúng bằng quả lựu đạn này.
Nước rút bớt, phù sa chan ra hai bên khiến Hòa lún xuống. Cũng may là phía dưới có thảm cỏ nên lún không sâu. Hòa cố nghiêng mình, lấy hết sức còn lại, chống tay đẩy người ngồi nghiêng về phía mông không bị thương. Hòa phải ngồi dậy, để may ra ở đâu đây có người trông thấy mình.
Nhướn mắt nhìn xung quanh, Hòa thấy một bên là dòng sông đỏ ngầu phù sa chảy cuồn cuộn. Chỉ cần thượng nguồn bồi thêm một trận mưa to nữa là nước sông lại nhanh chóng tràn ngập bãi, và lại cuốn Hòa đi. Nghĩ lại những giờ phút bị nước cuốn trôi, Hòa thấy ớn người. Rất may ở đây không có cá sấu.
Hòa nhìn về phía bờ sông, không có đê như quê Hòa. Cánh bãi cứ thoai thoải cao dần lên. Trên kia là thảm cỏ mênh mông bạt ngàn. Vài ba chỗ hình như trồng ngô hay mía. Có khoảnh um tùm những khóm chuối. Thế là vùng này có dân. Trong óc Hòa lóe một tia hy vọng.
Ngồi nghiêng rất mỏi, Hòa lại phải nằm xuống. Cái áo đẫm bùn nước, Hòa nằm cho nắng hút se lại. Đỡ mỏi, Hòa lại ngồi lên, mong có người ra làm ở nương mía, nương ngô nhìn thấy.
Nằm xuống, ngồi lên mấy lượt vẫn không thấy bóng một ai. Vết thương ở mông tấy lên, nhức thon thót. Hòa dồn sức vào hai cánh tay, đẩy cho cái mông không đau của mình trượt dần lại phía bãi, phù sa trơn tuột trên thảm cỏ giúp cho việc trượt của Hòa không khó khăn lắm. Mỏi tay thì nghỉ, đỡ mỏi lại trượt, cứ thế cho đến khi mặt trời qua đỉnh đầu nghiêng về phía tây thì Hòa đã vào tới thảm cỏ xanh. Nằm nghiêng trên thảm cỏ khô ráo, Hòa dễ chịu hơn nhiều so với nằm trên nước bùn. Vết thương của Hòa không phải ngâm bùn và nước sông có đột ngột dâng lên cũng không cuốn Hòa đi được.
Hòa nhìn rộng hơn, nhìn mãi, nhìn mãi, bỗng thấy có hiện tượng rung động ở vườn chuối, rồi một chú bé từ vườn chuối đi ra, điều khiển một con voi.
Hòa mừng lắm. Bây giờ chỉ còn tìm cách làm thế nào cho chú bé thấy Hòa. Hòa vụm hai bàn tay lên miệng, hú từng hơi dài.
Cánh bãi hoang vắng không một tiếng chim kêu khiến tiếng hú vang xa. Chú bé ngồi trên đầu voi nhìn qua, nhìn lại rồi cho con voi xăm xăm bước ra phía bờ sông.
Hòa chăm chú nhìn chú bé ngồi chễm chệ trên đầu voi. Chú ta mặc chiếc áo đen, tay cộc sát nách, lưng đeo gùi và chiếc xà gạc nhỏ. Khi con voi dừng bước, chú ta tụt xuống đất. Nửa người từ ngang lưng trở xuống phơi trần, da đen đen nâu nâu. Cái vòi khố ngắn ngủn thả giữa đôi bắp đùi của chú.
Hòa nói với chú bé bằng tiếng Mơ Nông.
Chú bé không nói gì. Đôi mắt chú tò mò nhìn Hòa từ đầu đến chân với vẻ nghi ngại. Hòa mạnh dạn:
- Anh là bộ đội giải phóng, bị nước cuốn trôi vào đây... Nhà em có gần không?
Chú bé hiểu ý Hòa, tuy Hòa nói chưa sõi lắm. Chú ta chỉ tay về phía rừng cây lưa thưa:
- Nhà em kia! Anh có về không?
Hòa gật đầu rồi chỉ vào vết thương của mình:
- Đau lắm! Không đi được!
Chú bé bước lại bên Hòa, nhìn cái mông đau. Mảnh đại bác phạt ngang, vải quần bị xé rách. Vết thương thâm lại vì ngâm nước và bùn... Mặt chú ta nhăn lại như cảm thấy sự đau đớn của Hòa. Chú ta nói:
- Chúp về, gọi ba má ra khiêng anh nhá!
Nói rồi, chú ta thoăn thoắt leo lên mình voi. Chợt nhớ ra, chú ta lại từ mình voi tụt xuống, lấy từ gùi những quả chuối chín đưa cho Hòa. Xong, chú ta cho voi bước nhanh về phía rừng cây lưa thưa.
Bố mẹ Chúp khiêng Hòa về nhà. Bố Chúp nấu nước rễ cây rửa vết thương cho Hòa, rồi đắp lên một thứ lá giã nhỏ. Mất hơn một tháng vết thương mới khô dần miệng lại. Trong những ngày Hòa phải ngồi liệt một chỗ, Chúp giúp đỡ anh nhiều việc lặt vặt nhưng rất cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày... Hòa thoát đau, thoát chết nhưng anh mất liên lạc với đơn vị.
Còn một sự may mắn nữa là cái buôn này hẻo lánh chỉ có hơn chục gia đình người Mơ Nông. Địch không với tay được tới đây vì một bên chúng phải vượt qua hồ Lắc rộng mênh mông, và một bên bị ngăn cách bởi con sông Krông Ana hay có lũ lớn.
Hòa trở thành người trong gia đình Chúp, cùng bố mẹ Chúp phát rẫy làm nương, gieo ngô, trồng chuối. Hòa làm khỏe, không phải ăn nhờ gia đình lại có phần dư thừa. Những trưa rảnh rỗi, Hòa tìm gần hai chục đứa trẻ từ chín đến mười sáu tuổi để dạy chúng học chữ. Ở đây, mọi người đều chưa từng được học.
Qua gần một năm, Hòa mới bắt liên lạc được với một cán bộ cách mạng ở buôn A-liêu. Đó là Y-đa, một người Ê Đê đánh cá ở hồ Lắc. Y-đa hỏi han, thử thách mãi rồi mới giao việc cho Hòa. Dần dần Hòa được giao phụ trách buôn Trát. Rồi Hòa được Y-đa cho gặp anh Thưởng - cán bộ huyện Lắc. Thế là Hòa chính thức được coi là cán bộ cách mạng.
Đơn vị đánh cầu Giang ngày ấy xếp Hòa vào số chiến sĩ mất tích. Một người cùng huyện với Hòa nhắn tin ra Bắc là Hòa mất tích. Mất tích với hy sinh thường được coi như gần giống nhau. Và tin ấy được đưa về quê Hòa, đến cả với Sim.
Sống với đồng bào buôn Trát, Hòa thấy mình vẫn làm được nhiệm vụ một chiến sĩ cách mạng. Xa anh em đơn vị nhưng Hòa vẫn góp phần làm cho anh em đồng bào tin tưởng, sẵn sàng làm nhiệm vụ mà cách mạng cần. Chẳng bao lâu, Hòa được huyện cử làm xã đội trưởng liên hợp, gồm các buôn Trát, buôn A-liêu, và làng mới của đồng bào Quảng Nam bị địch dồn lên vùng này. Vậy là Hòa vẫn làm công tác quân sự. Hòa tổ chức các tiểu đội dân quân ở buôn làng, lĩnh súng về huấn luyện cho anh chị em.
Sự chuẩn bị cứ âm ỉ dần dà như vậy, cho đến khi đùng một trận, bộ đội địa phương tiến công chi khu quân sự huyện Lắc, địch chạy tán loạn, bị bộ đội và dân quân bắt sống từng lũ. Một toán địch cướp thuyền đánh cá của dân vượt qua hồ Lắc, bị dân quân do Hòa chỉ huy tóm gọn.
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hòa rất vui sướng, nhưng anh không muốn trở về miền Bắc nữa.
Không muốn trở về là vì ở quê nhà, Hòa chẳng còn ai là người thân thiết, chỉ còn Sim, một cô bạn, một người đã có lời hẹn hò yêu thương với Hòa. Nhưng đã qua gần chục năm trời biền biệt xa nhau. Có thể Sim đã xây dựng gia đình với một người nào khác. Nay Hòa trở lại chỉ khiến cho Sim bận tâm về chuyện cũ. Nếu Sim chưa xây dựng cùng ai thì Hòa cứ lặng lẽ để Sim đi, vì bây giờ Hòa không còn lành lặn như trước. Vết thương trên má Hòa, nước da sốt rét của Hòa không phải là dễ bỏ qua đối với một người con gái. Sim không đẹp nhưng là một người con gái dễ thương. Vóc người đậm đà, gương mặt đầy đặn, đôi mắt luôn luôn có cái nhìn ưu ái, chẳng những Hòa thương mến, mà một chàng trai nào đó cũng dễ có thể yêu Sim, Sim cần được sống với một người chồng tốt nết và lành lặn. Hòa trở về có thể sẽ thành một trở ngại đối với hạnh phúc của Sim...
Hòa không muốn về quê, hoặc chưa muốn về ngay trong những năm tháng này, còn vì Hòa chưa muốn từ giã cái buôn Trát thân yêu. Cái buôn có thằng Chúp hiền lành đã gọi bố mẹ nó ra cứu Hòa trong tình thế mà Hòa tưởng gần như tuyệt vọng. Hòa đã sống được, rồi trở lại chiến đấu được là nhờ những người dân ở buôn đó. Hòa muốn ở lại đây còn vì lẽ bà con buôn Trát, buôn A-liêu và làng mới đều muốn giữ Hòa lại làm người của mình. Riêng buông Trát, bà con đã làm nhà cho Hòa ở cạnh nhà Chúp, tuy họ biết Hòa được gọi về ở cơ quan quân sự huyện Lắc, thuộc biên chế huyện, ăn lương làm việc ở xã.
Còn việc gia đình, vợ con, rồi đây Hòa sẽ nghĩ đến khi hoàn cảnh khách quan cho phép.
Thế là Hòa dứt khoát không có thư từ gì về quê cũ, kể cả cho Sim.
*
Vào những ngày tháng Hòa suy nghĩ mung lung thì Sim sống trong trạng thái phấp phỏng mong chờ, vừa hy vọng, vừa thất vọng. Trong xã mình và những xã chung quanh, có mấy người đi Nam đứt liên lạc nhiều năm, nay dần dần có thư về. Có người đã báo tử nay đột nhiên được về phép, gia đình đốt pháo, giết lợn ăn mừng. Còn Hòa - người mà Sim mong mỏi, vẫn vắng bặt tăm hơi. Cách đây mấy năm có tin đồn Hòa đã hy sinh, nhưng không thấy giấy báo tử. Có thể là có giấy báo, nhưng ngay giấy đó cũng bị bom đánh mất dọc đường.
Gần chục năm Hòa đi xa không gây sóng gió trong lòng Sim bằng gần một năm sau khi miền Nam giải phóng. Có đêm, Sim nằm mơ thấy Hòa về. Hai người lại ngồi bên bờ ao làng, nhìn ông trăng tròn vành vạnh in xuống mặt nước phẳng như gương. Rồi Sim nhìn Hòa, khuôn mặt anh giống như nhiều chiến sĩ đã từng ở miền Nam ra, đôi gò má hơi nhô lên và sạm nắng. Đôi mắt hơi sâu và cái nhìn sắc sảo, già dặn hơn. Đôi môi tai tái vì sốt rét. Hòa nắm chặt lấy cổ tay Sim, Sim cười và khẽ giằng ra... Năm nay Sim đã hai mươi bảy tuổi, cái tuổi không còn non trẻ nhưng cũng chưa phải là già. Sim có thể tìm hiểu người khác, để có một gia đình như bất cứ ai. Nhưng Sim không nỡ làm việc ấy khi cảm thấy Hòa vẫn còn sống. Chưa có chứng cớ gì để nói là Hòa đã mất. Nhất là từ trong trái tim, Sim vẫn còn thương yêu Hòa tha thiết.
Ngày một buổi lên lớp, một buổi soạn bài, chấm bài, Sim lấy công việc dạy trẻ làm niềm vui. Sim tìm thấy nguồn tình cảm trong bạn bè và trong các em học sinh ngoan ngoãn của mình. Nhưng Sim vẫn không quên chờ đợi và hy vọng.
Sau ngày đất nước thống nhất có những việc mới mà mọi người cũng như Sim không lường trước được, trong đó có việc một đội thanh niên tiền trạm được tỉnh cử vào huyện Lắc chuẩn bị đất đai để xây dựng vùng kinh tế mới. Xóm Sim cũng có một người vào đội đó.
Đội tiền trạm đi trước sáu tháng, thì tỉnh có quyết định đưa đồng bào vào quê mới. Anh đội viên ở xóm Sim từ trong ấy ra, mắt thấy, tay làm, đã kể lại với bà con:
- Cái huyện Lắc có nhiều rừng, nhiều núi nhưng đặc sắc nhất là có một cái hồ rất rộng. Đáy hồ ở độ cao ba trăm mét so với mặt biển. Gần hồ có một thung lũng rộng năm trăm héc-ta. Hằng năm có một phần nước ở thượng nguồn sông Krông Ana tràn vào thung lũng, phù sa theo xuống, lắng đọng lại. Ở nơi có đất, có nước ấy đã thu hút được nhiều người đến. Người Ê Đê, người Mơ Nông, vốn ở đấy từ lâu đời. Người Kinh từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đến từ những năm trước. Đất ở đây đã được người ta gieo ngô, gieo lúa. Buôn làng rải rác quanh thung lũng, nhưng người quá ít, nên đất đai còn hoang vu, phí phạm nhiều.
Sim đến nghe anh đội viên tiền trạm nói chuyện, vừa để biết công việc chung, vừa để dò la tin tức về Hoà. Trong phút giải lao, Sim hỏi anh đội viên:
- Người Kinh ở đấy, có ai từ Bắc vào không?
- Tôi không hỏi được khắp, nhưng nghe bà con kể thì có một chuyện hơi ly kỳ. Có một anh giải phóng nói tiếng miền Bắc, trôi theo dòng sông Krông Ana về vùng ấy sống với người Mơ Nông, lúc bấy giờ còn giặc. Anh đốt rẫy, làm nương, gieo ngô, trồng chuối; ăn mặc như người dân tộc. Cứ thế mấy năm ròng, cho đến trận cuối cùng anh chỉ huy người Mơ Nông đánh thắng giặc. Đồng bào rất mến anh, nên hòa bình rồi, anh vẫn còn sống ở đấy!
Câu chuyện đã khiến Sim phải để tâm trí vào đấy. Sắp có đoàn xe đưa bà con huyện nhà vào Nam xây dựng quê hương mới, Sim theo vào để thăm dò. Tìm người như thể tìm chim, nhưng Sim cứ thử đi một chuyến xem sao.
*
Chiều nay, Hoà ngồi trước mặt Sim dưới gốc cây kơ nia lá xanh mỡ màng. Cây kơ nia soi một phần bóng xuống mặt hồ Lắc trong, khiến Sim nhớ lại cái đêm chia tay với Hoà bên bờ ao làng, trăng tròn vành vạnh in trên mặt nước phẳng như gương. Sim lặng lẽ ngắm Hoà. Mười năm qua anh khác đi nhiều. Đôi mắt vốn có cái nhìn rụt rè, nay được thay thế bằng cái nhìn đầy suy nghĩ và sắc sảo. Nước da anh sạm nắng gần như da người dân tộc. Vầng trán rộng có vài vết nhăn mờ mờ. Và nhất là một sẹo dài kéo từ gò má xuống quai hàm khiến khuôn mặt anh có phần xấu đi.
Hoà tựa lưng vào gốc cây kơ nia, Hoà biết Sim đang ngắm nghía và nghĩ ngợi về mình, Hoà muốn như thế để Sim thấy rõ ràng hình dáng Hoà không còn được như trước nữa.
Sim ngắm Hoà hồi lâu, rồi từ đuôi mắt Sim, hai giọt nước lăn ra, Sim chớp chớp mắt. Hình ảnh Hoà bị lớp nước mắt của Sim làm nhoà đi. Một bàn tay Sim vịn vào người Hoà. Rồi Sim gục trán xuống cánh tay mình, đôi vai rung lên theo tiếng nấc.
Hoà nghiêng mặt nhìn Sim, Sim khóc. Trong giờ phút này, tiếng khóc nói thay cho bất kỳ tiếng nói nào, nó thiết tha, chân thành hơn cả những lời chân thành, thiết tha nhất; nó thay thế cả lời reo mừng xuất phát từ đáy lòng sâu thẳm. Tự nhiên Hoà cũng thấy có cái gì khiến mình nghèn nghẹn đến mức không thể nói nên lời. Hoà vòng cánh tay ốm lấy tấm lưng thon thả của Sim.
- Sao anh lại gan góc đến thế? Anh không biết ở nhà em mong tin anh đến cháy gan, cháy ruột! - Sim nói giọng trách móc.
Hoà thủ thỉ kể cho Sim nghe về cảnh huống mà mình đã trải qua từ khi bị thương trôi trên sông đến khi được cứu về nhà Chúp, và vì sao mình không muốn, chưa muốn trở về quê cũ. Sim lắng nghe, càng nghe Sim càng thương Hoà. Nhưng Sim vẫn trách:
- Anh đã không hiểu được, hơn nữa còn hiểu sai về người phụ nữ có người yêu đi cứu nước. Khi tiễn anh đi là em đã tự nguyện chấp nhận một sự hy sinh. Cũng như khi anh ra trận, anh đã tự nhận lấy một sự hy sinh, dù to, dù nhỏ. Vì vậy, có sự mất mát nào đó cũng không gây đột ngột, bởi sức chịu đựng đã sẵn sàng. Đất nước mình có biết bao cô gái khi tiễn người yêu đi thì lành lặn, khi về thì mang thương tích, chứ chả riêng em.
Hoà xúc động lắng nghe Sim nói. Anh nhận là mình đã không hiểu thấu lòng Sim. Anh se sẽ nắm lấy bàn tay Sim.
- Còn việc đền ơn những em bé đã cứu anh, em cũng thấy đấy là việc rất cần. Đồng bào vào đây lập quê mới sẽ mở trường cho con em mình. Có những giáo viên được cử đi theo học sinh của mình. Em sẽ tình nguyện đi như họ. Vào đây, việc chung, việc riêng kết hợp.
- Ừ, có thể như thế. Đấy là những điều anh không nghĩ ra.
Chiều xuống dần. Gió từ hồ Lắc làm rung rinh những lá trang, lá súng tròn và rộng như vành nón. Phía cơ quan huyện Lắc, loa truyền thanh đã vang vang. Hoà đứng dậy cùng Sim đi về phía đó.