H
ồi ở chiến trường Khu Sài Gòn - Gia Định, do yêu cầu tổng hợp tin tức, thường được đọc những bản tin của Ban 2 Quân Khu gửi sang, tôi thực sự khâm phục đến kinh ngạc sự chính xác kỳ lạ của những tin tức tình báo đó. Hầu hết các bản tin đều nêu bật, rất rõ những hoạt động quân sự của Mỹ và VNCH trong quá trình triển khai các kế hoạch giành dân, lấn đất, xóa thế da beo ở các vùng đô thị và ven đô Sài Gòn - Gia Định, vùng trung tuyến và vùng biên giới Việt Nam - Campuchia.
Nhiều lúc chúng tôi nghĩ phải là những con người như thế nào mới có khả năng nắm bắt thông tin nhanh nhạy và xác thực ở giữa một chiến trường mênh mông lúc nào cũng khét lẹt mùi thuốc súng và bom đạn này. Cuốn sách “Ký ức hai góc đối chiến” của anh Nguyễn Tiến Hùng đã cho tôi hiểu thêm về những con người – người lính trinh sát mà tôi hằng suy nghĩ, những con người tưởng như chỉ có trong trí tưởng tượng của tôi.
Cuốn sách là tự sự của chính tác giả và nhóm bốn lính Ăng-lê – những sinh viên của Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, khóa đào tạo 1961-1965. Sau khi tốt nghiệp đại học, các anh đã vào chiến đấu ở chiến trường B2 - Chiến trường miền Đông - Tây Nam Bộ và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định. Có anh vào chiến trường từ cuối năm 1965, lại có anh đi năm 1967. Có anh được trên cho trở về hậu phương, rồi chuyển ngành từ năm 1974. Nhưng cũng có anh ở lại chiến trường cho đến ngày kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước.
Mười hai năm ở chiến trường trọng điểm, các anh “sinh viên khoác áo lính” này đã trải qua biết bao lần đọ sức với lính Mỹ và VNCH. Và rồi có biết bao cảnh ngộ, biết bao nỗi ám ảnh về cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt đã đeo bám các anh, ngày đêm như những vết sẹo “tàng hình” trên cơ thể người lính chiến mà mắt thường không thể nào nhìn thấy được!
Bạn đọc có thể thấy trong cuốn sách “rất đắt giá” này những phác thảo toàn bộ diễn biến chiến trường B2, những chiến dịch, những cuộc hành quân liên miên với những hình ảnh và những chi tiết chân thực nhất. Nhưng hơn hết thảy là trải nghiệm của người lính chiến vào những thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến, với biết bao sự kiện mà sau này, khi chiến tranh kết thúc, “ơn trời họ còn sống sót”, họ sẽ kể cho con cháu nghe đến bao giờ mới hết, những câu chuyện mà họ đã từng trải qua trong chiến tranh!
Tôi muốn nhấn mạnh đến thời kỳ 1968-1969, thời kỳ Mỹ liên tục sử dụng lực lượng bộ binh tinh nhuệ nhất như Sư đoàn 1 Kỵ binh bay, Sư đoàn 1 bộ binh Anh cả đỏ, Sư đoàn 25 bộ binh Tia chớp nhiệt đới v.v… kết hợp với hỏa lực mạnh từ mặt đất và không lực Hoa Kỳ, tổ chức liên tục các cuộc hành quân “tìm và diệt” với đủ các kích cỡ, từ những cuộc hành quân quy mô nhỏ, vừa, cho đến lớn, để vừa tiêu diệt cơ bản chủ lực ta ở vòng ngoài, vừa bình định lãnh thổ ở bên trong.
Đối phó với âm mưu của quân đội Mỹ và VNCH, ta đã chủ động mở các chiến dịch từ cấp sư đoàn, đến cấp chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô, tương đương cấp quân đoàn tăng cường. Và cuối cùng, chủ lực ta đã giành được thắng lợi rất cơ bản, làm thay đổi cục diện chiến trường.
Tất cả những diễn biến thay đổi đến chóng mặt trên chiến trường như vậy, làm sao thế hệ mai sau có thể hiểu được? Tôi có thể khẳng định nếu không có những trải nghiệm từ thực tế trong chiến đấu, chúng ta không thể biết được những chi tiết “đắt giá”, những tác phẩm hư cấu “bậc thầy” cũng khó có thể tưởng tượng ra, nếu từ sâu thẳm trong lòng người lính chiến không tự bộc lộ ra. Những trải nghiệm có thể bắt nguồn từ trong cuộc chiến đấu sinh tử với đối phương. Hoặc từ hình ảnh của người cha trong bức thư gửi vào chiến trường phải đằng đẵng cả năm trời, vượt qua dãy núi Trường Sơn dọc theo đất nước, qua bao chặng đường gian nan, khúc khuỷu, đầy bom đạn. Và nhờ “vận may” nên anh bộ đội đang sống và chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ mới may mắn nhận được thư của người cha kính yêu. Có bức thư không bao giờ nhận được, vì trên đường vận chuyển cả ngàn cây số, bòng thư nặng trĩu đã cùng người gùi “âm thầm” ra đi… Trong bức thư, người cha chỉ đau đáu một câu hỏi duy nhất, rất đỗi bình thường: “Bao giờ con về nhà?”. Hoặc từ hình ảnh người mẹ hiền, gương mặt già nua, sạm màu sương gió, mắt đờ đẫn nhìn thằng con trai đi lính bị thương từ mặt trận trở về quê nhà, khi ôm chặt đứa con, mẹ đã không còn sức để khóc nổi nữa. Hình ảnh người cha sức cùng lực kiệt mòn mỏi phóng tầm mắt về phương trời Nam, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, mong mỏi, trông chờ con trai trở về nhà. Hình ảnh anh thương binh trở về quê sau bảy năm xa cách, thấy quê hương xơ xác, tiêu điều. Anh trai lớn vừa mới hy sinh ngoài mặt trận, chị dâu lại vừa mới xin phép cha mẹ chồng cho “thoát ly” để đi công tác. Hình ảnh anh bộ đội ở chiến trường B2 sau bảy năm xa nhà biền biệt, “lóe trong đầu” biết bao mộng mơ, hy vọng khi được phép hưởng “một chuyến bay vô cùng đặc biệt” về miền Bắc tham gia trao trả tù binh. Nhưng anh chỉ được vui trọn vẹn “đúng một đêm” ở căn nhà yêu quý tại phố Bà Triệu với mẹ già và anh, chị em. Và được thanh thản “trong phút chốc” ngồi trên chiếc xe Skoda của quân đội chở từ sân bay về nhà, đi qua những dãy phố trung tâm của Hà Nội như Hồ Hoàn Kiếm, Tràng Thi, Cửa Nam, Hàng Bông Nhuộm, Bà Triệu v.v… “đầy ắp những kỷ niệm” với người yêu năm xưa, vô cùng đẹp và nên thơ, còn chị đã không chờ được anh trở về. Sáng sớm hôm sau, đúng như tác phong lính tráng, anh có mặt ở chỗ hẹn để kịp chuyến bay trở lại chiến trường…
Tất cả, vâng, tất cả những trải nghiệm đó của người lính là vì trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, người lính chiến không chỉ đơn giản phải chiến thắng ở ngoài mặt trận, mà còn phải chiến thắng cả những mong mỏi, những ước ao rất đỗi đời thường của chính cá nhân mình, cho dù những ước muốn đó có chính đáng đến đâu chăng nữa cũng phải “nén” lại.
Thi thoảng chúng ta bắt gặp ở đây những sinh hoạt đời thường “đậm màu lính tráng”. Chẳng hạn, lúc tác giả gặp bạn trên đường hành quân, sau nhiều năm bặt tin tức, không biết sống chết ra sao. Hay cuộc đoàn tụ bất ngờ với người bạn thân giữa nơi bom đạn có thể trút xuống bất cứ lúc nào. Chính những sinh hoạt đời thường “rất lính” đó có ý nghĩa cực kỳ to lớn, nuôi dưỡng tâm hồn người lính, thôi thúc, động viên họ, bằng mọi giá phải nhanh chóng kết thúc cuộc chiến để sớm được trở về quê nhà với cha mẹ, với những người thân thương nhất.
Phần cuối cuốn sách viết về Thượng sĩ Ray Bows, một hạ sĩ quan Mỹ tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ tháng 04 năm 1968 đến tháng 06 năm 1969, qua tư liệu anh Nguyễn Tiến Hùng có được trong cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên với Thượng sĩ Ray Bows vào tháng 07 năm 2006, tại “Bức tường tưởng niệm cuộc chiến tranh ở Việt Nam”, thủ đô Washington của Mỹ. Ở đó là những nỗi trăn trở, ám ảnh kinh hoàng về cuộc chiến mà anh Ray đã giấu trong đáy lòng, không hề thổ lộ, chia sẻ với bất cứ một ai trong suốt 30 năm ròng. Cho đến khi anh gặp được chị Pia Problemi, vợ anh, người mà anh có thể chia sẻ để bớt đi những sầu muộn triền miên.
Nhìn chung, cuốn sách “Ký ức hai góc đối chiến ” là một cuốn tự sự rất chân thành, được viết với lời văn hoạt bát, sôi nổi, ngôn từ giản dị theo lối “vô tự mới là chân kinh”, chứng tỏ phong cách lính và phẩm chất nghệ sĩ của tác giả.
Gấp cuốn sách lại, vọng mãi trong tôi là những suy tư thầm kín trong tâm hồn mà người lính phải gánh chịu, là nỗi khao khát hòa bình để sớm được trở về nhà với cha mẹ, gia đình và người thân. Và từ những tâm tư thầm kín đó toát lên thật đậm nét, sắc cạnh một câu hỏi cho đến nay vẫn luôn là đề tài nóng hổi: “Tại sao phải có chiến tranh, và bản chất của chiến tranh là gì?”. Vì sao những thanh niên đang ở độ tuổi 20 rất đẹp của cuộc đời, đang được cha mẹ nâng niu, chiều chuộng, đang được chăm sóc chu đáo, luôn ham học, ham thích các môn thể thao như khúc côn cầu, bóng rổ, bóng chày và rất nhiều ước mơ khác, lại phải dấn thân vào một cuộc chiến tranh tàn khốc đến như vậy?
Đây chính là câu hỏi mà chính McNamara, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ qua hai đời tổng thống là Kennedy và Johnson, đã phải thú nhận trong cuốn hồi ký của mình: “Chúng tôi đã sai, sai một cách khủng khiếp. Chúng tôi nợ các thế hệ tương lai để giải thích lý do tại sao? ”.
Tôi cũng hy vọng bạn đọc sẽ có câu trả lời sau khi đọc cuốn sách này. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hà Công Tài
Viện Văn học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Nguyên Thư ký ông Năm Xuân (tức ông Mai Chí Thọ), Phó Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, kiêm Chính ủy Quân khu trong kháng chiến chống Mỹ.