T
ôi phải vô cùng cảm ơn Đại tá Nguyễn Bạch Vân, nguyên Phó Trưởng phòng Quân báo, Bộ Tư lệnh Quân khu 07, nguyên Trưởng Tùy viên Quân sự Việt Nam ở Thái Lan, về những ý kiến phản biện rất tích cực của Đại tá trước khi cuốn sách này có thể ra đời, đến tay bạn đọc.
Tôi rất kính trọng và quý mến anh Nguyễn Bạch Vân vì những tình cảm anh dành cho tôi “đầy ắp” trong suốt hàng chục năm cùng sống và công tác ở chiến trường.
Mặc dù giờ đây anh tuy đã lớn tuổi (xấp xỉ tuổi 90, hơn tôi khoảng 09 tuổi) nhưng vẫn tràn đầy nhiệt huyết như hồi còn trong chiến tranh.
Gửi biếu anh bản thảo cuốn sách, anh đọc đi, đọc lại đến ba lần và có những ý kiến phản biện rất cụ thể và vô cùng hữu ích.
Anh gọi điện thoại, trao đổi với tôi cả tiếng đồng hồ về một số tư liệu tôi trích dẫn từ cuốn sách mang từ Mỹ về với tên gọi Time-Line Vietnam: The Tiger That Ate The Firebase, và cuối cùng đã viết bằng tay rất chân tình những ý kiến quý báu đóng góp để cho cuốn sách tôi viết được hoàn thiện.
Được anh cho phép, tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc toàn bộ bức tâm thư góp ý phản biện tích cực cho cuốn sách đó như sau:
Mến gửi Tiến Hùng
Phải đọc đến lần thứ ba mình mới hiểu được tâm tư của Ray Bows khi kể lại những câu chuyện hãi hùng về chiến tranh in trong cuốn sách Tiến Hùng mang từ Mỹ về.
Những tư liệu Tiến Hùng trích dẫn trong cuốn sách để minh chứng cho những ký ức sâu sắc về cuộc chiến tranh tại Việt Nam mà Thượng sĩ Ray Bows phải chịu đựng “đau đớn” không những về tinh thần mà còn về thể xác do cuộc chiến ở Việt Nam gián tiếp hoặc trực tiếp tạo ra, chủ yếu xoay quanh những kỷ niệm đi hộ tống xác con trai gia đình nhà Bobby Wiedemann trong tang lễ ở Thành phố Gary, Bang Indiana vào ba ngày 02; 03; và 04 tháng 04 năm 1968 và những kỷ niệm về các chuyến đi vận tải và nghỉ đêm tại các cụm căn cứ hỏa lực của thượng sĩ ở các vùng Sài Gòn - Gia Định, Tân Cảng, Biên Hòa, Long Bình, Thủ Đức, Củ Chi, dọc đường Quốc lộ 13 lên Cầu Đồng Nai, dọc đường Quốc lộ 22 lên Tây Ninh v.v…
Phần cuối, Tiến Hùng nêu lên những nét đặc trưng về tâm tư, tình cảm, những lo sợ của binh lính Mỹ khá ấn tượng trên chuyến bay vượt hàng ngàn dặm, qua biển Thái Bình Dương, để về quê hương, kết thúc đúng một năm “Tua Việt Nam” (Vietnam Tour) của Ray Bows vào ngày 06 tháng 06 năm 1969.
Điều mình muốn Tiến Hùng lý giải thật rõ để bạn đọc hiểu chủ đề:
“Chính cái con Hổ đã nuốt chửng cụm hỏa lực ấy ” muốn nói lên điều gì? Tại sao tác giả lại đề cập đến “Cụm hỏa lực”?
Chắc Tiến Hùng nhớ rất rõ tình hình sau sự kiện năm 1968, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Việt Nam đã chủ trương tìm mọi cách đẩy chủ lực ta ra biên giới, sử dụng các lực lượng thiện chiến của quân đội Mỹ tiêu diệt chủ lực ta ở các tuyến vòng ngoài và vòng trung tuyến, còn vòng trong cuối cùng (vành đai bảo vệ Sài Gòn) giao cho quân lực Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh và tiến hành bình định, khôi phục lại những vùng đã bị ta giải phóng.
Nhằm hữu hiệu hóa chủ trương này, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Việt Nam đã điều động Sư đoàn 01 Kỵ binh bay (một sư đoàn thiện chiến nổi tiếng của Mỹ trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai) từ Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ hoạt động chủ yếu ở vòng ngoài cùng tại khu biên giới Việt Nam - Campuchia, hỗ trợ cho các Sư đoàn 01 Anh cả đỏ và Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới của quân đội Mỹ hoạt động ở vòng trung tuyến.
Bên cạnh đó, Mỹ đã tổ chức các “cụm yểm trợ hỏa lực” (Fire Support Base) với tham vọng dùng sức mạnh hỏa lực hỗ trợ cho bộ binh Mỹ tiêu diệt các đơn vị chủ lực của ta ở vòng ngoài và vòng trung tuyến. Thông thường mỗi cụm yểm trợ hỏa lực gồm một đại đội pháo 105 ly gồm 06 khẩu pháo và một trung đội pháo 155 ly gồm 02 khẩu pháo.
Cụm yểm trợ hỏa lực này có thể bắn yểm trợ cho các đơn vị bộ binh hoạt động trong phạm vi bán kính từ 10 đến 15 km.
Mỗi một vùng, Mỹ tổ chức ba “cụm yểm trợ hỏa lực” (FSB) để yểm trợ cho khoảng trên dưới một lữ đoàn Mỹ hành quân (cụ thể như ở phía bắc tỉnh Tây Ninh, Mỹ tổ chức các cụm ở Kà Tum, Đồng Pan, Sóc Con Trăng v.v…).
Tất cả các đơn vị Mỹ hành quân ở vùng này đều được các “cụm yểm trợ hỏa lực” (FSB) hoạt động 24/07 nhằm yểm trợ tối đa hỏa lực trong bất kể tình huống nào khi được các đơn vị hành quân yêu cầu.
Chính vì vậy, các đơn vị bộ binh Mỹ phải thông báo rất cụ thể vùng hoạt động của đơn vị mình ban ngày, và vị trí đóng quân dã ngoại ban đêm “Night Defence Position” (NDP) cho các cụm FSB biết để sẵn sàng yểm trợ khi cần thiết.
Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Việt Nam rất hy vọng vào hiệu quả của việc tổ chức hệ thống FSB này để thực hiện tham vọng tiêu diệt chủ lực ta trên chiến trường.
Ngay tại khu vực bắc Tây Ninh, trong năm 1968, Tiểu đoàn trinh sát mặt đất 46 (D46) của Phòng Quân báo Bộ Tư lệnh Miền điện báo cáo về Sở chỉ huy thấy máy bay C130 đáp xuống khu vực Kà Tum (một vị trí nằm khá sâu, gần căn cứ của Bộ Tư lệnh Miền). Đây là một hiện tượng lạ, chưa hề thấy. Tiểu đoàn trinh sát D46 được giao nhiệm vụ bám sát xem động tĩnh lính Mỹ định làm gì.
Thế là chỉ hai đến ba ngày sau, anh em ở Tiểu đoàn trinh sát D46 đã quan sát thấy Mỹ cho chở hàng chục xe ủi đất đến san bằng khu vực trên và nhanh chóng dựng lên một cụm yểm trợ hỏa lực dã chiến tại Kà Tum, bao gồm cả một sân bay dã chiến có thể phục vụ cho máy bay vận tải C130 đáp xuống được.
Cụm yểm trợ hỏa lực ở Kà Tum hoạt động yểm trợ cho các đơn vị của Sư đoàn 01 Kỵ binh bay ban đầu khá hiệu quả.
Đơn vị trinh sát kỹ thuật Mỹ của Phòng Quân báo Bộ Tư lệnh Miền đã phục vụ khá tốt, nắm được kế hoạch và quy luật tổ chức hoạt động của các “cụm yểm trợ hỏa lực” (FSB) của Mỹ, cung cấp nhiều tin tức có giá trị, phục vụ đắc lực cho đặc công và chủ lực của ta đánh và tiêu diệt gọn nhiều cụm FSB trên.
Trận đánh ngoạn mục nhất phải kể đến là trận đánh rất dũng cảm của đặc công, tiêu diệt toàn bộ “cụm yểm trợ hỏa lực” tại Kà Tum.
Rồi tiếp theo ngoài sử dụng đặc công, ta còn sử dụng bộ đội chủ lực tấn công trực diện, tiêu diệt các cụm FSB khác như các trận đánh tấn công, tiêu diệt gọn các cụm hỏa lực (FSB) ở Sóc Con Trăng, Đồng Pan v.v… của Sư đoàn 01 quân giải phóng (Công trường 01).
Tóm lại, ta đã sử dụng đặc công, bộ đội chủ lực, hoặc kết hợp đặc công với bộ đội chủ lực đánh vô cùng dũng cảm, làm phá sản chủ trương triển khai các cụm hỏa lực FSB để chi viện cho bộ binh Mỹ tiêu diệt toàn bộ chủ lực ta, nhằm giải quyết thật nhanh và gọn cuộc chiến ở Việt Nam.
Thế là FSB đã hết “tác dụng” trên chiến trường!
Tiến Hùng suy nghĩ xem cụm hỏa lực trong “Chính cái con Hổ đã nuốt chửng cụm hỏa lực ấy ” có phải là FSB này không?
Còn “Con Hổ” ai cũng đoán được. Đó chính là đặc công, là chủ lực của ta.
Một vài ý kiến để Tiến Hùng tham khảo.
Chúc Tiến Hùng khỏe và vui.
Thân mến,
Nguyễn Bạch Vân