Những con đường tối hơn, lộng gió hơn.
Không có ai đuổi theo chúng tôi, trừ phi hắn đang lái xe mà không có đèn, mà điều này là có thể, nhờ những hệ thống tầm nhìn đêm mới. Nhưng cách tôi đang lái xe - nhanh rồi lại chậm, thi thoảng dừng đột ngột, những cú cua bất ngờ vào những con đường tôi biết rõ nhưng tôi cho rằng Loving không biết - để tôi tin chắc rằng không có ai theo dõi.
Sau bốn mươi phút, đi một lúc trên Đường 7 sau đó là Georgetown Pike rồi đến River Bend Road. Tiếp theo, vòng qua Great Falls ở khu trung tâm, tôi đi vào một loạt tuyến đường và con phố ngoằn nghoèo có thể định vị bằng GPS nhưng không đáng tin cậy.
Cuối cùng, sau một chuyến đi qua cánh rừng rậm, chúng tôi đi qua không quá ba ngôi nhà - những ngôi nhà rất lớn - chúng tôi đã đến khu phức hợp nhà an toàn, nằm tách biệt khỏi con đường nhờ một hàng cọc chắn cao hơn hai mét, xa hơn nữa là các hàng rào dây xích cao mét tám.
Khu phức hợp bso gồm tòa nhà chính bảy phòng ngủ, hai nhà phụ - một trong hai căn là nơi dùng khi có biến cố - hai nhà để xe rộng và một nhà kho hoàn chỉnh với một đống cỏ khô. Bên ngoài là các bãi cỏ rộng mười mẫu Anh, bao quanh con sông Potomac, đoạn sông hỗn loạn, những khúc sông hẹp, nơi thực sự có một loạt thác ghềnh, cho dù “Đại thác” là tên theo ước lượng phóng đại của ai đó, “Khiêm nhường nhưng đẹp như tranh vẽ” sẽ là một cái tên phù hợp hơn.
Khu đất này đúng là một món hời. Ngày nay bạn không thể làm việc trong bất kỳ cơ sở chính phủ nào mà không nhận thức được điểm mấu chốt. Vào những năm 90, khu phức hợp này từng là nhà riêng của các nhà ngoại giao Trung Quốc, một chốn đi về từ đại sứ quán ở trung tâm quận. Theo FBI được biết, đây còn là nơi cơ quan cảnh sát mật vụ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều đặn gặp gỡ những người đưa tin và mật vụ của mình, những người thu thập thông tin từ các nhà thầu và nhân viên chính phủ cấp thấp và chụp ảnh NSA, CIA và các cơ sở không được nhắc tên khác tại Langley, Tysons và Centreville. Được biết rằng phần lớn công việc là trộm cắp bất động sản thương mại thay vì những bí mật quốc phòng. Nhưng đó là sự khiếm nhã về chính trị, nếu không muốn nói là bất hợp pháp.
Khi người Trung Quốc bị khám xét chỗ ở, những cuộc đàm phán tinh vi có liên quan đến một thỏa thuận rằng các nhà ngoại giao và doanh nhân giả mạo sẽ phải rời khỏi đất nước mà không bị khởi tố, đổi lại, chính phủ sẽ sở hữu khu nhà… và những ưu đãi khác không được tiết lộ. Tài sản này được một số cơ quan sử dụng như một chốn ẩn náu cho đến khi Abe giành lại nó cho chúng tôi khoảng tám năm về trước.
Ngôi nhà màu nâu to lớn từ thế kỷ XIX này đã được lắp ráp đầy đủ thiết bị an ninh hiện đại mà chúng tôi có thể sắm được. Nó không được tối tân về công nghệ hay trông bắt mắt như người ta mong đợi. Có các cảm biến trên hàng rào, mặc dù chúng sẽ chỉ có hiệu lực với ai không biết đến sự có mặt của chúng. Các tầng trệt vốn không được giám sát khắp mọi nơi, dù tại những lối vào chính (không nhất thiết là những lối vào dễ thấy) có gắn các cảm biến nặng nề giấu kỹ trong đất. Tất nhiên, toàn bộ nơi này được gắn máy quay đầy đủ, vài cái dễ phát hiện, vài cái thì không. Sáng hôm ấy, tôi đã cử một nhân viên, mà chúng tôi hay gọi là người theo dõi, hoặc specs để giám sát nơi này. Những người theo dõi của chúng tôi ngồi tại West Virginia, trong căn phòng lờ mờ tối, theo dõi trên các màn hình ti vi suốt ngày dài - cho dù họ không thừa nhận điều đó - mở nhạc to hết cỡ, lắc đầu theo nhịp. Họ có thể làm thế vì các máy quay của chúng tôi không gắn micro. Việc đó tốn quá nhiều băng thông. Ngày nào đó chúng tôi sẽ có thể sắm được cả hai, và những người theo dõi sẽ phải mất đi phần nhạc của họ. Còn bây giờ, đó là những bộ phim câm của khu phức hợp và tiếng nhạc của Def Leppard vẳng ra từ những cái loa.
Tôi gọi người theo dõi được chỉ định cho chúng tôi, anh ta trả lời ngay lập tức.
“Chúng tôi ở đây rồi,” tôi nói, cho dù anh ta đã biết kể từ khi trở thành người theo dõi từ năm phút trước.
Không gian tĩnh lặng, anh ta báo cáo. Chẳng thấy điều gì đáng ngờ.
“Con hươu đâu rồi?”
“Ở nơi nó nên ở.”
Vì công việc này cùng vài khía cạnh khác trong đời mình, tôi đã học được rất nhiều điều về thế giới động vật - chẳng hạn, điều gì dọa dẫm con hươu và các động vật khác và tại sao. Tôi đã dặn dò những người theo dõi của mình - cả những đệ tử - luôn luôn phải để ý đến hành vi động vật, chúng có thể cho ta các đầu mối liên quan đến sự xâm nhập. Tôi thực sự đã giảng về điều này tại các hội nghị chuyên nghiệp. Một con lửng khó chịu đã cứu mạng sống của một trong các thân chủ của tôi một năm trước, cảnh báo chúng tôi về sự xuất hiện của tên sát thủ.
“Không có xe lạ nào ở gần,” giọng nói như nghẹt mũi của người theo dõi. Tôi chưa từng gặp anh chàng này nhưng đã có vài ấn tượng. Căn cứ theo nhà riêng của anh ta ở trên núi tại West Virginia, giọng nói và sở thích nhạc heavy metal của anh ta, sao có thể không ấn tượng được chứ?
Tôi cảm ơn anh ta rồi gõ vào mật mã trên cổng trước, cánh cổng bật mở và một vết lốp xe gần như vô hình nhưng ấn tượng in hằn dưới đất. Chúng tôi tiến thẳng qua hàng rào cọc chắn tới lối xe vào nhà ngoằn ngoèo, dài ba mươi mét. Garcia và Ahmad đang nhìn xung quanh, thận trọng, Maree và Ryan Kessler cũng đầy cảnh giác như thế, tôi tin anh ta đã nốc một hai ngụm rồi. Joanne liếc nhìn ra ngoài cửa xe như thể đang nhìn tờ tạp chí đã ra được một tháng trong phòng chờ của bác sĩ.
Tôi dừng xe rồi bước ra ngoài. Cạnh cửa trước - trông giống gỗ nhưng thật ra là thép được gia cố - tôi mở một bảng điều khiển gõ vào bàn phím bên dưới một màn hình LCD nhỏ. Thông qua các cảm biến chuyển động, âm thanh và nhiệt, chương trình xác nhận rằng căn nhà hoàn toàn không có người (nó có thể xác nhận nhịp tim của người nhưng sẽ không làm phiền tôi với tiếng con chuột cống đang đi kiếm mối hay bình nóng lạnh bất ngờ hoạt động). Tôi mở khóa cửa rồi bước vào trong, sau đó tạm thời vô hiệu hóa báo động, nó sẽ kích hoạt lại một khi chúng tôi đã vào trong nhà hết rồi khóa cửa lại, cho dù đã có một nút báo động cho phép bất kỳ ai bên trong có thể mở cửa trong trường hợp có hỏa hoạn hoặc đột nhập. Hầu hết các ô cửa sổ cũng giống vậy, mà sẽ chỉ mở ra được sáu phân.
Tôi bật hết đèn và lò sưởi lên - nhiệt độ đã giảm xuống - sau đó là bật cả một dãy các màn hình giám sát an ninh, mô phỏng các màn hình tại West Virginia. Tiếp theo là máy chủ của máy tính bảo mật. Tôi đã kiểm tra và thấy rằng các cáp viễn thông được bảo vệ vẫn đang hoạt động. Cuối cùng, tôi kiểm tra kĩ lưỡng các máy phát điện đã được trang bị; chúng sẽ tự động bật lên nếu kẻ xâm nhập cắt đường dây điện chính.
Tôi đưa các thân chủ đi xem nhà một vòng quanh tầng trệt có mùi ẩm mốc.
“Ồ, ngăn nắp đấy!” Maree nói, lướt đến xem một số bức ảnh đã cũ, dính vết mực màu nâu đỏ trên tường, tảng lờ đi các giá sách và tạp chí, và đúng rồi, các trò chơi board games, cho dù không phải là những trò tôi quyên góp. Ngắm nhìn vẻ mặt phù phiếm của cô em gái, tôi cố gắng nhớ lại khi bảo vệ một thân chủ để có thể nhanh chóng quên đi mình vừa tham gia vào trận đấu súng mới một tiếng trước. Không bao giờ, tôi quả quyết.
Tôi giải thích về đồ ăn, nước uống, và ti vi. Như một thằng nhóc trực tầng, tôi đưa vợ chồng Kessler lên phòng của họ, tiếp theo là đưa Maree về phòng của cô ta ở bên cạnh. Cô gái trẻ có vẻ bị ấn tượng. “Anh đang tự chuộc lỗi đấy à, anh Hướng dẫn viên,” cô ta nói, trả cho tôi một đô tiền boa, một trò đùa, tôi đoán vậy. Tôi không biết đáp lại như thế nào nên đành bỏ qua cái cử chỉ kỳ quặc này. Cô ta còn tặng tôi cái bĩu môi dỗi hờn nữa.
Ahmad, Garcia và tôi sẽ thay phiên nhau ngủ, với hai tay bảo vệ luôn luôn thức và canh gác. Phòng ngủ của người dẫn dắt là một phòng nhỏ ở tầng trệt, giữa cửa trước và các phòng ngủ của thân chủ.
Tôi biết rõ sơ đồ bố trí của khu phức hợp và căn nhà an toàn này và Ahmad, người chưa từng tới đây, đã nghiên cứu về nơi này. Tôi đã kiểm tra cậu ta vài lần - gần đây nhất là một tháng trước - và tôi biết cậu ta đã nắm rõ sơ đồ bố trí. Tôi để cậu ta giải thích ngắn gọn với Garcia còn tôi giải thích với đặc vụ FBI về hệ thống thông tin liên lạc và tủ cất giấu vũ khí. Tôi cho cậu ta biết về mật mã mở khóa. Bên trong cũng không có nhiều lắm: vài khẩu H&K và Bushmasters M4, được nâng cấp lên tự động hoàn toàn, các khẩu súng lục, lựu đạn gây choáng như loại mà chúng tôi từng dùng chống lại Loving tại bẫy ruồi.
Khi các thân chủ giờ đã an toàn trong pháo đài của mình, tôi bước vào căn phòng nhỏ mà tôi dùng làm văn phòng, ngồi tại chiếc bàn làm việc bằng gỗ sồi cổ và mở laptop. Tôi cắm điện laptop và sạc điện thoại vào ổ cắm trên tường; trong ngành an ninh tư nhân có rất nhiều nguyên tắc quan trọng, Abe đã trích ra, nhưng nguyên tắc nằm trên đầu danh sách: “Không bao giờ được bỏ lỡ cơ hội sạc pin hoặc dùng phòng tắm.”
Tôi đã làm được cái đầu tiên; giờ tôi làm tiếp cái thứ hai, bước vào phòng tắm. Tôi rửa tay, rửa mặt bằng thứ nước nóng nhất mình chịu đựng được rồi kiểm tra các vết xây xát và bầm tím từ vụ rượt đuổi Loving tại bẫy ruồi. Không có gì nghiêm trọng, cho dù lưng tôi đau nhức kinh khủng do nỗ lực trốn thoát liều lĩnh cùng chiếc Yukon tại Nhà trọ Hillside.
Tôi đi quanh căn nhà, kiểm tra các cảm biến và chắc chắn rằng toàn bộ phần mềm và hệ thống thông tin liên lạc đang hoạt động tốt. Tôi cảm thấy mình như một kỹ sư.
An ninh tư nhân là một ngành trang bị tối tân; buộc phải thế, vì những kẻ xấu biết tất cả các món đồ chơi… và để mua được chúng thì phải ngốn một khoản ngân sách dường như vô hạn. Mặc dù bạn sẽ nghĩ với một người yêu thích board games hơn các trò chơi trên máy tính, tôi sẽ không ưa thích công nghệ cao, tuy nhiên tôi luôn đảm bảo chúng tôi có được trang thiết bị công nghệ mới nhất; các máy phát hiện thuốc nổ nhỏ như một con chuột máy tính mô phỏng các máy phát hiện sợi carbon cường độ cao dành cho các vũ khí phi kim loại, các cảm biến âm thanh có thể cảnh báo cho chúng tôi âm thanh của nắp trượt vũ khí tự động khi nạp đạn vào ổ đạn, hoặc tiếng cạch lên cò của một khẩu súng ngắn; các micro sẽ mô phỏng các cuộc đối thoại từ những âm rung từ bên kia bức tường; máy gây nhiễu âm thông tin liên lạc; tín hiệu GPS tái định hướng sẽ gửi một chiếc xe tới chỗ bạn ngay lập tức.
Tôi luôn luôn mang trong ngực mình hoặc trong túi bên hông một máy quay phim dưới dạng một cây bút. Nó có liên kết với phần mềm dùng các thuật toán cảnh báo tôi qua ngôn ngữ cơ thể của một kẻ đang tới gần tương đồng với ngôn ngữ của một cuộc tấn công sắp tới. Tôi còn sử dụng cây bút để ghi âm các âm thanh từđám đông ngoài đường khi đang vận chuyển thân chủ, để xem có gương mặt người qua đường nào ở nơi này lại xuất hiện ở nơi khác.
“Cái bút” thứ hai thật ra là thiết bị phát hiện tín hiệu không dây để quét bọ.
Thậm chí thứ chúng tôi gọi là “hộp thư”; nó rộng gần một mét và mở tung ra ngoài khi nghe thấy tiếng nổ của một thiết bị nổ tự tạo, bắn ra lớp áo giáp Kevlar và lưới thép - như áo giáp lưới của các hiệp sĩ trung cổ - nhằm ngăn chặn các mảnh kim loại và chịu được áp lực nổ nhiều nhất có thể.
Thi thoảng các thiết bị này có hiệu quả và đôi khi thì không. Nhưng bạn cứ làm tất cả những gì cần thiết để giành ưu thế trước đối thủ. Abe Fallow thường hay nói vậy. Lợi thế ấy có thể nhỏ thôi, nhưng đôi khi chỉ chừng đó là đủ.
Tôi quay lại chỗ máy tính và tải về mấy email mà duBois đã gửi. Tôi đang soạn câu trả lời thì cảm thấy có sự hiện diện của ai đó. Tôi ngước mắt lên và trông thấy vợ chồng Kessler trong bếp. Tôi nghe thấy tiếng mấy cái tủ mở ra, tiếng cửa tủ lạnh. Cơ sở này có một quầy bar, ngăn chia phòng ăn tối với bếp, nhưng nó chỉ có soda thôi. Trong bếp thường có rượu và bia. Cho dù chúng tôi không thể uống khi đang làm nhiệm vụ, tất nhiên, nhưng chúng tôi cố gắng đảm bảo các thân chủ của mình cảm thấy thoải mái hết mức có thể - và quan trọng hơn, cố gắng khiến họ càng ít phàn nàn càng tốt.
Ryan mệt mỏi lê bước tới quần bar và rót một tí Coca vào cái cốc đã đầy một nửa thứ chất lỏng màu cẩm thạch. Joanne rót cho mình rượu Sierra Mist.
“Em có muốn thêm một chút nữa không?” Tôi nghe thấy anh ta hỏi.
Cô lắc đầu.
Anh ta nhún vai như muốn nói, Tùy em thôi.
Anh ta nhìn vào phòng làm việc và trông thấy tôi đang nhìn họ. Anh ta quay bước về phía phòng ngủ. Tôi trở lại với máy tính, xem các thư mục gửi qua email đã mã hóa của duBois.
Cô đang trả lời một vài trong số rất nhiều đề nghị của tôi ngày hôm đó và bảo đảm với tôi rằng cô mong đợi biết thêm nhiều chi tiết về hai vụ án có liên quan của Ryan. Tôi cần phải làm thêm vài nghiên cứu nữa - một mình. Tôi đăng nhập vào công cụ tìm kiếm bảo mật chúng tôi hay dùng - định tuyến các lệnh của mình qua một proxy tại châu Á.
Thông tin phản hồi ngay lập tức; tôi không tìm kiếm nội dung tuyệt mật mà chỉ đơn giản là xem xét kỹ truyền thông nói chung. Trong nửa tiếng tôi đã đọc qua hàng trăm trang phóng sự và hầu hết là các trang bài viết của độc giả. Cuối cùng tôi đã có được hình dung về đối tượng trong nghiên cứu của mình.
Thượng Nghị sĩ Lionel Stevenson đã đắc cử hai nhiệm kỳ, một người theo đảng Cộng hòa từ Ohio. Ông ta đã từng vào Quốc hội trước đó và làm công tố viên tại Cleveland trước khi ứng cử vào nghị viện. Ông ta là người ôn hòa, được cả hai đảng trong Nghị viện, cũng như trong Nhà Trắng tôn trọng. Từng làm bốn năm trong Ủy ban Tư pháp, giờ phụ trách Ủy ban Tình báo. Ông ta là người chỉ trích kịch liệt việc liên minh để kiếm vừa đủ phiếu bầu để làm ứng cử viên Tòa án Tối cao trong nghị viện. Một chính trị gia có câu nói được trích dẫn về những nỗ lực của Stevenson, “Xây dựng sự ủng hộ quả là một việc khó khăn - ngày nay dường như ai cũng căm ghét ai đó tại Washington này.”
Quá nhiều tiếng la hét trong Quốc hội. Quá nhiều tiếng la hét ở khắp nơi.
Ông ta đã nhiều lần đến thăm các bệnh viện của Ủy ban Cựu Chiến binh và các nhà trường tại Ohio, và xung quanh D.C. Ông ta là một phần của bối cảnh xã hội Washington và bị nhìn thấy cặp kè với những người phụ nữ trẻ hơn - cho dù khác với các đồng nghiệp, đó không phải là vấn đề vì ông ta chưa có gia đình. Ông ta giành được sự ủng hộ của các ủy ban hành động chính trị, các nhà vận động hành lang và các tổ chức gây quỹ chiến dịch không bao giờ xung đột với luật pháp. Ông ta được xem là một trong những biểu tượng của cái gọi là phong trào Đảng Cộng hòa mới, mà chính vì phong thái ôn hòa của ông ta đang cảm hóa những người theo đảng Dân chủ và Trung dung, có vẻ như ông ta sẽ giành được đa số phiếu và đứng vững chắc trong các cuộc bầu cử tiểu bang và liên bang sắp tới.
Có thể điều đáng kể nhất tôi tìm hiểu được là những nhận xét ông ta đưa ra tại một trường cao đẳng cộng đồng ở Bắc Virginia vài tháng trước. Mặc dù về nhiều mặt ông ta là luật sư bào chữa về an ninh trật tự nhiệt thành, tuy nhiên Stevenson vẫn nói, “Chính phủ không phải là bên đứng trên luật pháp. Không đứng trên người dân của mình. Mà chính phủ phải được luật pháp ràng buộc và phải phụng sự người dân. Có chính phủ tại Washington - có những chính phủ tại từng tiểu bang - họ nghĩ rằng các quy định có thể bị bẻ cong hoặc phá vỡ nhân danh an ninh và đánh đổi. Nhưng chẳng có gì có thể đánh đổi quy định của luật pháp. Và các chính trị gia, các ủy viên công tố và cảnh sát nhắm mắt làm ngơ ý nguyện của những vị Cha Già Lập Quốc cũng chẳng khác gì những kẻ cướp ngân hàng hoặc lũ giết người.”
Người phóng viên tuyên bố rằng những nhận xét này đã mang lại cho Stevenson sự tung hô từ tiền sảnh chật kín các cử tri tương lai. Các bài báo khác bình luận rằng triết lý này khiến ông ta đánh mất các phiếu bầu tại quê nhà từ các cử tri của đảng Cộng hòa và thi thoảng là tình trạng thù địch từ thành viên của Đảng Vĩ đại Kỳ cựu1 trong Quốc hội. Điều này mách bảo cho tôi rằng động cơ của ông ta tại các phiên điều trần sắp tới về việc giám sát chính phủ được bắt nguồn từ ý thức hệ, chứ không phải những lá phiếu bầu.
1 GOPers: Grand Old Party, tên viết tắt của Đảng Cộng hòa.
Tôi tiếp tục kéo chuột xuống xem hết rất nhiều các tài liệu, ghi nhanh một vài ý.
Tôi cảm thấy bối rối khi làm chuyện này, và một lần nữa thấy ghen tị với những kỹ năng nghiên cứu của Claire duBois. Tuy nhiên, đây không phải là nhiệm vụ tôi trao cho cô ấy.
Ngước mắt lên tôi thấy Joanne đang đứng ở cửa giữa bếp với phòng khách, tựa người vào thanh dọc khung cửa, gương mặt xinh đẹp nghiêm nghị của cô đã bớt tê liệt một chút so với lúc nãy. Tôi lưu lại trang trong tệp mã hóa rồi gõ lệnh bật lên màn hình được bảo vệ bằng mật khẩu.
Tôi nhìn chằm chằm màn hình một lúc, những hình ảnh các quân cờ xuất hiện rồi lại tan đi, khi tôi ngẫm nghĩ về những gì mình vừa biết được về Stevenson. Sau đó tôi đứng dậy và bước tới cửa, gật đầu với Joanne.
Bên trong căn nhà an toàn ấm áp đến ngạc nhiên. Nhiều nữ thân chủ đã đem lòng yêu nó. Vài nam thân chủ cũng vậy. Khi một kẻ moi tin hay sát thủ đang săn đuổi bạn, bản năng xây tổ bùng lên thật nhanh như một quả bóng khinh khí cầu tại Hallmark. Thậm chí tôi còn từng xuống nhà thì thấy các thân chủ của tôi đã sắp xếp lại đồ nội thất. Lần khác, trước sự ngỡ ngàng của tôi, một cặp vợ chồng đã tháo sạch hết các tấm màn cửa giữa hai phòng, có lẽ vì họ thích cảnh đứng giữa những ô cửa sổ trần trụi để làm chuyện đó.
Sự thoải mái là lý do tôi yêu thích căn nhà an toàn này - không phải vì nó tiện cho tôi, mà vì sự chuyên nghiệp; các thân chủ của tôi bớt cảm thấy bực bội và khiến cuộc sống của tôi dễ dàng hơn.
Joanne cầm cái điều khiển lên, hỏi tôi, “Được chứ?”
“Tất nhiên.”
Cô bật ti vi lên, có lẽ là để xem chúng tôi đã lên bản tin chưa. Chúng tôi đã lên bản tin, mặc dù là nặc danh. “Có khả năng liên quan tới băng nhóm,” phát thanh viên nói, ám chỉ đến vụ đấu súng tại nhà trọ Hillside. Rồi bản tin tiếp tục với các mẩu tin vắn về cơ hội của đội Oriole ở vòng playoff, một vụ đánh bom tự sát tại Jerusalem, một tuyên bố của ứng cử viên vào Tòa án Tối cao, thúc giục những cuộc biểu tình trước đồi Capitol, cả ủng hộ lẫn chống lại ông ta, vẫn tiếp tục diễn ra trong ôn hòa; đã xảy ra vài sự cố nhổ nước bọt và ném chai lọ. Tôi dành cho ông ta sự im lặng nhờ đã giúp che giấu chuyến quá cảnh của tôi tới bẫy ruồi.
Joanne nhìn chằm chằm màn hình, nắm chặt lon soda. Những ngón tay của cô cách xa nhau khi vén một sợi tóc vàng sẫm màu ủ rũ. Cô vẫn đeo túi trên vai.
Sự thoải mái của những gì quen thuộc…
Hoàn toàn bất ngờ, cô nhìn tôi và nói, như thể tiếp tục một cuộc nói chuyện chúng tôi đã có suốt từ nãy. “Anh ấy tức giận lắm. Ryan ấy. Rất tức tối. Anh ấy thấy có lỗi vì đã mang chuyện này đến với chúng tôi. Và khi anh ấy cảm thấy có lỗi, anh ấy chẳng biết làm thế nào để giải quyết nó. Anh ấy trở nên giận dữ. Đừng để bụng nhé.”
Có thể cô đang ám chỉ lời nhận xét cay đắng của anh ta rằng mình bắn giỏi hơn tôi nhưng những người khác lại bảo vệ anh ta.
Hay anh ta có ngụ ý rằng chúng tôi là những kẻ hèn nhát, sợ phải đối đầu với Loving.
“Tôi hiểu mà.” Tôi hiểu thật.
“Anh ấy không bao giờ bình phục hoàn toàn khỏi vụ xả súng tại cửa hàng đó. Ý tôi không phải là vết thương, cái chân - anh ấy cảm thấy ổn, phần lớn thời gian là vậy. Ý tôi là về tâm lý cơ. Cách nó ảnh hưởng tới anh ấy. Anh ấy phải chuyển sang làm việc bàn giấy. Anh ấy thích được đi tuần trên phố. Đó là việc cha anh ấy đã làm, tại Baltimore. Sau khi Ryan chuyển sang ban Tội ác Tài chính, cha anh ấy dường như không còn tôn trọng anh ấy nữa.”
Tôi nhớ cả cha mẹ anh ta đều đã chết và tôi tự hỏi quan hệ giữa cha con họ đến cuối cùng như thế nào. Cha tôi đã chết khi còn trẻ; đó luôn luôn là nỗi hối tiếc khi tôi vì quá bận bịu nên đã không thể dự buổi tiệc sinh nhật mà không ngờ là buổi cuối cùng của ông ấy.
Cũng là hối tiếc, bởi vì ông đã mất, nên ông không thể có mặt trong tiệc sinh nhật đầu đời của con trai tôi.
Joanne nói tiếp, “Anh ấy làm việc nhưng không hề để tâm vào nó. Giờ thì họ dồn hết công việc hành chính cho anh ấy.” Cô ngừng lại. “Họ biết anh ấy nghiện rượu. Anh ấy nghĩ rằng mình đã che giấu rất kỹ. Nhưng anh ấy không làm được. Không thể làm được.”
Tôi nghĩ rằng mình cũng thấy rất khó từ bỏ việc mình làm và không thể chơi trò chơi chống lại những kẻ như Henry Loving, với các thân chủ của tôi lại càng không.
Nhưng tôi không nói với Joanne điều này, tất nhiên. Tôi luôn luôn phải kiềm chế không chia sẻ quá nhiều thứ với những người mà tôi bảo vệ. Không chuyên nghiệp. Họ có thể bật ra điều gì đó về bạn - nếu họ bị kẻ moi tin bắt giữ hoặc nếu họ nói chuyện với phóng viên. Còn một lý do khác nữa. Thân chủ và người dẫn dắt rồi sẽ phải chia tay nhau. Điều đó chắc chắn như bốn mùa trong năm. Tốt hơn không nên thiết lập bất kỳ mối liên kết nào; giảm thiểu rủi ro tổn thương tình cảm. Đó là lý do tại sao Abe Fallow dặn chúng tôi phải xem họ chỉ như “những thân chủ của mình” mà thôi.
“Cứ nặc danh với họ thôi, Corte. Đây là công việc hai chiều. Cậu phải trở thành một miếng bìa carton hình người. Đó là cách cậu nhìn họ. Chỉ biết những gì cậu cần biết để giữ họ sống sót. Đừng sử dụng tên của họ, đừng xem ảnh con cái họ, đừng hỏi họ có ổn không, trừ phi cậu đang chạy vòng vèo tránh đạn và cần phải gọi cứu thương.”
Nhưng điều trớ trêu là các thân chủ rất thích nói chuyện với những người dẫn dắt chúng tôi. Ôi, họ thực sự muốn chia sẻ.
Một phần vì nguy cơ cận kề cái chết khiến họ rơi vào trạng thái nói nhiều. Thường là thú nhận. Họ đã làm nhiều điều sai trái trong cuộc đời mình - mà ai lại không cơ chứ? - và họ muốn làm vơi bớt tội lỗi bằng cách tâm sự. Cho dù, quan trọng hơn, tôi không phải là mối đe dọa. Tôi hiện diện trong cuộc đời họ được mười hai tiếng, bốn mươi tám tiếng hoặc cùng lắm là vài tuần. Đến cuối cùng tôi sẽ rời khỏi và sẽ không bao giờ ở vào vị thế nhắc lại những điều bí mật với bạn bè họ hoặc những người họ yêu thương.
Thế nên tôi lắng nghe và gật đầu, không đặc biệt khuyến khích, và tôi không phán xét theo bất kỳ cách nào. Tất nhiên, một phần điều này được tính toán. Họ càng phụ thuộc và tin tưởng vào tôi nhiều bao nhiêu, họ sẽ càng làm chính xác điều tôi bảo họ làm bấy nhiêu - ngay lập tức và không cần hỏi.
Joanne nhìn vào máy tính của tôi, dù tôi đã chuyển sang màn hình chờ để cô ấy không thể xem được. Cô hỏi, “Vậy anh nghĩ đó là vụ án nào của Ryan vậy?”
“Thuộc cấp của tôi đang điều tra chúng rồi.”
“Vào lúc mười giờ tối thứ Bảy sao?”
Tôi gật đầu.
“Ryan không hay nói nhiều về công việc của anh ấy với tôi. Anh sẽ nghĩ đã rất rõ ràng kẻ mà… anh gọi là cái gì nhỉ, kẻ chủ mưu à?”
“Đúng vậy, phải. Ý cô là để cần phải thuê một kẻ như Henry Loving sẽ phải rất nguy hiểm?”
“Đúng vậy.”
“Đúng. Nhưng thi thoảng cô không biết được. Tôi có rất nhiều nhiệm vụ mà nhân dạng của kẻ chủ mưu lại là một ngạc nhiên lớn.”
Maree xuất hiện, tự rót cho mình một cốc rượu rồi bước đến chỗ chúng tôi.
Tôi hỏi, “Căn phòng ổn chứ?”
“Rất Martha Stewart, thưa chàng Hướng dẫn viên. Những bức tranh cũ về những con ngựa. Hàng đống ngựa. Tất cả đều có những cái chân mỏng manh. Lũ ngựa béo tốt với những cái chân mỏng manh. Tôi tự hỏi hồi ấy trông chúng có thực sự giống thế không. Tôi nghĩ chắc chúng phải ngã rất nhiều.”
Joanne mỉm cười trước câu nói này - một nhận xét xứng đáng tầm Claire duBois. Maree hỏi, “Tôi lên mạng được không? Tôi cần phải kiểm tra email.”
“Tôi e là không được.”
“Ôi, không phải lại trò gián điệp đấy chứ? Làm ơn đi. Tôi có thể cầu xin không?” Cô ta nói câu này với ánh mắt bẽn lẽn của đứa trẻ tuổi thiếu niên. Tất nhiên, đôi môi cô ta bĩu ra rất thuyết phục.
“Xin lỗi.”
“Tại sao không?”
“Chúng tôi cho rằng Loving đã phát hiện tài khoản của cô. Nếu cô đọc các tin nhắn hoặc gửi bất kỳ tin nhắn nào đi, hắn có thể liên kết thời gian với bộ định tuyến và lưu lượng máy chủ trong khu vực quanh đây.”
“Corte, anh có nhìn bốn hướng trước khi băng qua đường không?”
“Mar,” Joanne mắng mỏ. “Thiệt tình.”
“Ôi làm….ơn.”
Tôi nói, “Chỉ đề phòng thôi.” Tôi nhìn chăm chú nét mặt nghiêm túc của cô ta rồi gật đầu. “Làm sao thế?”
“Nếu tôi không thể gọi được chuyên gia mát xa của mình tới đây, vậy thì ai đấy nợ tôi một tin nhắn… Anh Hướng dẫn viên, nói xem điều này có nằm trong mô tả công việc của anh không?”
Tôi nhìn chằm chằm vào cô ta một cách trống rỗng. Cô ta nói, “Anh không hay đùa đúng không?”
“Maree,” chị gái cô ta nghiêm khắc nói. “Thôi đi.”
“Nghiêm túc đấy,” cô ta nói với tôi. “Chỉ như gửi vài cái email thôi mà. Tôi phải lấy một số hình ảnh cho bộ sưu tập của buổi triển lãm.”
“Nếu điều này thật sự quan trọng, tôi có thể mã hóa nó, gửi đến phòng thông tin liên lạc trung tâm sau đó chúng tôi có thể định tuyến nó qua vài proxy ở châu Á và châu Âu.”
“Đấy có phải trò đùa không thế?”
“Không.”
“Để những người khác sẽ đọc được nó à?”
“Phải, ba hoặc bốn người. Cả tôi nữa.”
“Vậy thì tôi nghĩ mình sẽ chọn giải pháp thay thế hấp dẫn hơn… là đi ngủ.” Cô ta quay đi đầy thách thức rồi biến mất vào hành lang mờ tối.
Joanne nhìn em gái mình đi khỏi, cặp hông mỏng manh của Maree di chuyển dưới chiếc váy mỏng khi cô ta sải những bước vững chãi, gần như gợi tình.
“Cô ta đang dùng thuốc gì vậy?” Tôi hỏi.
Joanne ngập ngừng. “Wellbutrin.”
“Còn gì nữa không?”
“Có thể là Ativan. Hai hoặc ba viên.”
“Gì nữa?”
“Con bé không cần dùng thuốc gì nữa. Nó không có bảo hiểm nên tôi thấy các hóa đơn thuốc của nó. Bởi vì tôi phải trả tiền cho chúng. Làm sao anh biết được?”
Tôi bảo cô, “Ngôn ngữ, một số hành vi của cô ta. Tôi phát hiện ra cô ta từng nằm viện. Hai lần, đúng không?”
Joanne bật ra một tiếng ho cảnh giác. “Anh biết về những chuyện đó à?”
“Cấp dưới của tôi đã tìm hiểu bất kỳ điều gì có thể có liên quan. Cố gắng để tự sát? Đó là điều tôi suy luận từ báo cáo.”
Joanne gật đầu. “Bác sĩ nói nhiều về cử chỉ hơn là nỗ lực. Con bé bị bạn trai bỏ rơi. Mà thậm chí còn chả phải bạn trai. Chúng nó mới cùng đi chơi được khoảng sáu tháng nhưng con bé đã sẵn sàng để sống chung, cùng sinh những đứa trẻ. Tôi nghĩ anh hiểu nó đau lòng đến thế nào.”
Giọng cô nhạt đi và cô đang nhìn tôi như thể tôi có lẽ không biết nỗi đau tăng dần là như thế nào. Ryan có thể đã kể với cô rằng tôi sống độc thân không con cái.
Cô nói tiếp, “Một mảnh giấy, một chút quá liều. Lần thứ hai cũng thế. Hơi tệ hơn một chút. Một người khác. Tôi ước gì con bé ám ảnh chuyện dùng liệu pháp cũng như ám ảnh vì những người tình.”
Tôi ngước nhìn lên tiền sảnh rồi nhẹ nhàng hỏi, “Có phải Andrew làm tổn thương cô ta không?” Tôi gõ nhẹ lên cánh tay mình.
Mí mắt Joanne run rẩy. “Anh giỏi đấy…” Cô lắc đầu. “Nói thật, tôi không biết. Trong quá khứ chắc hắn đã làm đau con bé. Nó từng đưa con bé vào bệnh viện một lần. Con bé bảo rằng đó là tai nạn. Chúng luôn làm thế, lạm dụng các nạn nhân. Hoặc con bé bảo rằng đó là lỗi của mình. Lần này con bé hoàn toàn tin rằng có kẻ đã đánh nó. Nhưng chỉ là tôi không biết.”
“Còn bức thư chuyển tiếp? Cô ta đã chia tay với Andrew rồi dọn về ở với cô?”
Joanne bắt gặp hình ảnh phản chiếu của mình trong tấm gương cũ xấu xí, bèn quay mặt đi. “Đúng vậy. Andrew có rất nhiều người thích nó. Thằng bé có tài, đẹp trai và nó nghĩ em gái tôi cũng có tài. Hoặc nó có bảo với con bé như thế. Nhưng nó cũng là đứa ghen tuông và thích kiểm soát. Nó thuyết phục con bé bỏ công việc đang làm rồi dọn đến ở cùng nó. Chuyện này kéo dài khoảng hai tháng. Nó phát điên vì con bé suốt thời gian ấy nhưng khi con bé dọn đi nó còn phát điên hơn nữa. Tạ ơn Chúa là chúng tôi đã ở ngay gần, con bé có nơi để đi sau khi được bảo lãnh.”
Maree, người có tên khai sinh là Marie và không bao giờ chính thức đổi tên mình, duBois đã điều tra được, và đây cũng là đối tượng trong các báo cáo bỏ nhà, do cảnh sát địa phương lập, khi cô ta còn ở tuổi thiếu niên, và một số tội danh sử dụng ma túy và ăn cắp tại siêu thị đã được bãi nại; có vẻ như mấy thằng nhóc cô ta giao du đã thuyết phục cô ta đi theo chúng. Chúng cố tình gài bẫy để cô ta nhận tội.
Dù chẳng điều nào trong số này liên quan tới công việc của tôi hay cuộc nói chuyện giữa chúng tôi đây, và tôi chẳng nói gì về nó hết.
“Vậy anh vẫn đang làm nghiên cứu ở nhà đấy à?”
“Vì công việc ấy hả? Ừ.”
Sau một lúc, Joanne, người dường như không biết đùa chẳng kém gì tôi, thoáng nở một nụ cười với tôi. “Anh đã biết được gì về tôi rồi?”
Tôi không chắc nên trả lời sao. Nghiên cứu của duBois về Joanne đã cho thấy một cuộc sống bình thường. Cô là một sinh viên có trách nhiệm, đã tốt nghiệp, là nhân viên thống kê và nội trợ. Cô có chân trong Tổ chức Giáo viên Phụ huynh tại trường của Amanda. Biến cố thăng trầm duy nhất, một quy trình đều đặn bốn mươi năm, bản thân nó đã không bình thường: chẳng hạn, một chuyến du lịch ba lô ra nước ngoài trước khi tốt nghiệp - tôi hình dung đó là dấu ấn đáng chú ý trong thời thanh xuân của cô - và tai nạn ô tô nghiêm trọng nhiều năm trước đòi hỏi vài tháng trị liệu vật lý.
“Tôi phát hiện ra cô là người khiến tôi không phải lo lắng.”
Nụ cười biến mất. Joanne nhìn thẳng vào mắt tôi. “Anh sẽ trở thành một chính trị gia tốt đấy, Corte. Ngủ ngon nhé.”