“Một quả bom bí ngô à, Corte. Cậu đúng là có khiếu hài hước đấy. Bất chấp mọi người có nói gì.” Freddy đá một mảnh rau nhây nhớt. “Chỉ là cậu thể hiện nó hơi khác người thôi.”
Có hai chiếc xe FBI trong đường cầu vượt, kẹp cứng chiếc xe dính đầy vỏ bí ngô màu cam và vàng của Zagaev, trên kính chắn gió là đống hỗn độn nhưng nguyên vẹn, người Munich đã tạo ra một cỗ máy cứng như thép.
Săn bắt theo kiểu truyền thống không phải là lựa chọn - vì Zagaev có thể cảnh báo Loving - tôi quyết định sẽ tự mình chặn y lại khi y phóng xe dưới cầu vượt nơi tôi đỗ xe gần đó. Tôi đã mua một trái bí ngô chín từ quầy hàng bên lề đường, và khi Zagaev phóng qua bên dưới, tôi đã thả quả bí ngô xuống giữa kính chắn gió của y. Sau đó tôi trượt xuống con đường dốc, rút súng ra, lôi y ra khỏi xe. Y choáng váng nhưng không bị thương. Kiểm tra nhanh điện thoại cho thấy y không có cuộc gọi nào hay không gửi tin nhắn nào trong năm phút vừa qua.
Tôi khá chắc chắn rằng cả Loving cũng như tên đồng bọn của hắn đều không có mặt ở đây, nhưng không hoàn toàn tin tưởng, nên tôi hỏi Freddy, “Người của ông có để ý ai bong ra khi y không rẽ ngoặt vào đường cao tốc thu phí không?”
“‘Bong ra.’ Vui thật. Như với rau củ quả vậy. Nhưng tôi không nghĩ ý cậu là như thế.”
Tôi nhướng một bên mày sốt ruột.
“Không, y đi một mình.”
Bằng giọng có trọng âm nhẹ, Zagaev lẩm bẩm, “Anh là ai? Tại sao anh làm thế này với tôi? Nhìn xe tôi xem! Nó hỏng rồi.”
Tôi cóc thèm quan tâm những lời khiếu nại của y. Người tôi còn đang nhức sau cữ chạy dọc theo lề đường cùng quả bom chín mọng, nặng 11 ki-lô-gam của tôi.
Một đặc vụ khác đã kiểm tra cốp xe của chiếc BMW và đánh giá toàn bộ số vũ khí. Anh ta báo cáo, “Chẳng có gì đặc biệt. Khẩu M-four mua từ Nga, các số series biến mất một cách vi diệu. Và hai khẩu Beretta M9, có số series. Chúng bị ăn cắp, ngạc nhiên, ngạc nhiên. Rất nhiều đạn. Chẳng có thứ gì nổ súng vào ban đêm.” Anh ta chuyển hầu hết số súng đạn này sang cốp xe của Freddy.
“Tôi muốn luật sư của tôi.”
Vẫn tảng lờ y, tôi nói với Freddy, “Quanh đây có chỗ nào nói chuyện được không?”
Khu Washington D.C. là trung tâm của hàng tá cảnh sát và các tổ chức an ninh quốc gia, một số công khai như CIA, số khác vẫn ẩn danh, như của chúng tôi, số khác nữa bí hiểm tới nỗi như không tồn tại. Như tổ chức của Williams. Nhưng tất cả bọn họ có một điểm chung: Họ cần các cơ sở - những tòa nhà để hoạt động trong đó, hệt như các công ty bảo hiểm hoặc các start up phần mềm máy tính. Thậm chí nhiều tổ chức bí mật nhất đóng đô trong các tòa nhà cao tầng và thấp tầng ở Tysons và xung quanh đó, nơi chúng tôi đang đứng bây giờ. Hằng hà sa số căn nhà được xây dựng - thế nên các nhà quản lý dịch vụ nói chung có thể kiếm được bạc tỉ. Tiết kiệm cho chúng tôi những đồng đô la trả thuế.
Ngoài ra khu này còn có các quán Clyde, Starbucks và sushi Arigato; ngay cả gián điệp cũng cần phải chén đồ ăn nhanh như những người khác.
Freddy suy nghĩ một lúc rồi quay người lại, hất đầu về phía một tòa nhà văn phòng màu trắng trông chán ngắt phía bên kia đường cao tốc thu phí, chỉ cách hai trăm thước.
“Tiện đấy,” tôi nói. “Ông có mũ trùm đầu không?” Tay đặc vụ chìa ra một cái.
“Không, không!” Zagaev đỏ mặt. “Các người không thể làm thế. Tôi là một công dân.”
Tôi kéo mũ trùm qua đầu y rồi dẫn y vào ngồi ghế sau chiếc xe của Freddy, cẩn thận không để cộc đầu. Một đặc vụ khác lẻn vào ngồi cạnh y rồi hỏi, “Có thở được không?”
“Mẹ kiếp các người!” Y quát lên. “Mẹ kiếp. Các người không thể làm thế. Bây giờ tôi sẽ gặp luật sư của tôi.”
Tôi quay sang Freddy. “Y thở được mà.”
Nửa tiếng sau tôi đi qua cửa an ninh tại tòa nhà mà Freddy đã chỉ. Hóa ra nó là một trụ sở của các tổ chức liên bang công khai hơn. Các đặc vụ FBI giải thích, chính vì lý do này mà Zagaev được áp giải qua cửa sau.
Tôi xuống nhà và gặp một phụ nữ mảnh mai khoảng bốn mươi tuổi, mái tóc ngắn màu đen. Đôi mắt sắc sảo. Cô ta mặc bộ complet đen với chiếc túi nặng nề khoác trên vai. Cô ta làm việc cho tổ chức của chúng tôi và giúp chúng tôi trong những vụ mà tôi hay gọi là tình huống bất thường, như vụ này. Tên cô ta là Roberta Santoro, cho dù quanh văn phòng biết đến cô với cái tên đơn giản là Bert.
Tôi chào đón cô. Cô im lặng theo phong cách đặc trưng.
Tôi hỏi: “Sẵn sàng chưa?”
Gật đầu.
Chúng tôi bước vào một phòng họp và thấy Aslan Zagaev đang ngồi trên ghế, hai cổ tay bị còng sau lưng. Một máy quay nằm trên cái giá ba chân chiếu thẳng vào y. Ánh sáng đỏ rực rỡ. Y phẫn nộ ngước nhìn chúng tôi.
“Anh đã có thể giết chết tôi rồi!”
“Trái bí ngô thôi mà,” tôi nói rõ. “Nó sẽ không giết được anh đâu.”
“Phải, nó có thể làm thế đấy. Nó có thể xuyên qua kính chắn gió và giết chết tôi.” Y cáu kỉnh. “Tại sao tôi không được gọi luật sư?”
Bert bước đến đầu kia bàn rồi ngồi xuống. Hai bàn tay cô ta đặt trên lòng và gương mặt thụ động. Tôi chẳng nói gì về cô ta với Zagaev, cũng như cô ta không xuất trình thẻ. Y nhìn cô ta một lần rồi quay lại nhìn tôi. Liếc trộm lần nữa rồi nói với tôi, “Anh không có quyền làm thế này. Tôi biết làm sao những khẩu súng lại xuất hiện ở đó. Anh đã gài chúng.”
Trong lý thuyết trò chơi, nhân cách của đối thủ của bạn chẳng liên quan gì. Thậm chí có kiểu trò chơi trong đó bạn có thể thay thế bất kỳ ai thành người chơi khác. Nhưng với tôi, khi chơi một trò board game, việc nhìn thấy người ngồi đối diện mình rất quan trọng. Thi thoảng vào giờ ăn trưa hoặc sau giờ làm, tôi sẽ tới Câu lạc bộ Game của mình ở Old Town, và nếu tôi không đủ khả năng tham gia vào trò chơi, tôi sẽ chỉ ngồi xem người khác chơi. Tôi nghiên cứu các phong cách chơi, đôi mắt của họ, cách họ cầm các quân bài hay lắc xúc xắc hoặc di chuyển các nhân vật hoặc quân cờ. Tôi cố gắng không nhận ra các manh mối bại lộ - vốn hoặc đã rõ ràng, ở những người không chuyên, hoặc không tồn tại, ở những người chơi chuyên nghiệp - tôi chỉ muốn xem những người chơi hành động và phản ứng ra sao, họ yêu thích và không thích điều gì.
Tôi muốn xem những phản ứng với chiến thắng và thất bại.
Tôi muốn xem những bàn tay run rẩy.
Lúc này, tôi quan sát chăm chú đối thủ của mình thật kỹ, như thể chúng tôi đang ngồi đối mặt nhau qua một bàn cờ. Zagaev có mái đầu tròn, cằm chẻ được che lấp rất khéo sau bộ râu và mái tóc khô mà không thể nói rõ ra được là ngả xám nhiều hay ít. DuBois đã cho biết tuổi của y, chỉ mới bốn mươi ba. Đầu y to, xanh xao vì thiếu máu. Hai bàn tay y căng thẳng hết xiết chặt rồi lại thả ra cứ vài giây một lần. Tôi biết điều này vì nghe thấy tiếng leng keng của còng tay sau lưng y. Trên cổ y đeo một sợi dây xích vàng và một tấm bùa hộ mệnh mà trên đó là một biểu tượng khó hiểu. Tôi hoàn toàn chắc chắn đó là Sa hoàng Alexander II, từ các nghiên cứu tôi biết người đàn ông này là một nhà cải cách khiêm nhường - bằng các tiêu chuẩn kẻ thống trị tuyệt đối - tại nước Nga vào giữa thế kỷ 19. Dẫu vậy, thật tò mò khi một người Chechnya lại lựa chọn hình ảnh đặc biệt này.
Quần áo của Zagaev rất đắt tiền, đắt hơn mức tôi có thể mua được, đắt hơn nhiều so với mức tôi muốn. Bộ complet của y được cắt may bằng lụa màu xanh sáng rực rỡ, màu trời trong cuốn sách hư cấu của trẻ con. Đôi giày bằng da rắn sáng bóng trong ánh đèn chói mắt trên đầu. Mồ hôi của y thật ghê tởm. Tôi có thể ngửi thầy mùi hôi cơ thể và mùi hành từ bên kia bàn.
Tôi rướn người về phía trước. Tôi không to lớn, điều này đúng. Nhưng tôi đã học được một điều thú vị trong nhiều năm tháng làm người dẫn dắt. Mọi người có xu hướng sợ bạn hơn nếu bạn không có sức mạnh áp đảo về thể chất. Có lẽ họ suy nghĩ rằng thiệt hại tôi có thể gây ra cho mạng sống của họ còn tồi tệ hơn thiệt hại ai đấy có thể gây ra bằng cái ống nước. Zagaev, kẻ nặng hơn tôi khoảng hai mươi hai cân, giờ thu mình lại.
“Tôi cần biết anh đang làm việc cho ai.”
“Tôi không phải là người xấu.” Zagaev ngước mắt lên nhìn tôi với cặp mắt van lơn. Những đòi hỏi đạo đức trong sáng là chiến lược chung trong những trò chơi như thế này. Nhưng chúng là giấy, mãi mãi bị thua trước kéo.
“Điều ấy không nằm trong cuộc thảo luận của chúng ta. Anh đang làm việc cho ai?”
Sau đó y trở nên giận dữ, nét mặt mềm mại hơn vừa nãy đã biến mất.
“Chẳng ai hết! Không âm mưu, không cướp máy bay, không đi xe đạp dưới ga tàu điện ngầm với các ba lô…”
Tôi liếc mắt về phía Bert. Không một cái chớp mắt đáp lại.
Zagaev đã nhận ra, y bối rối. Y đang tự hỏi cô ta là ai.
Tôi nói tiếp: “Chúng tôi biết anh đang làm việc cho một người. Không lâu trước đây anh vừa dùng điện thoại họ hàng nhân viên của anh nói chuyện với hắn.”
Gương mặt y đầy khó chịu. Y lẩm bẩm vài từ mình y hiểu. “Không phải tôi! Ai đấy đóng giả tôi. Người của anh làm thế này suốt mà.”
Tảng lờ những lời chối tội mệt mỏi, tôi nói tiếp: “Aslan, chúng tôi phải cho rằng anh đang làm việc với một tổ chức và rằng đó là mối đe dọa với an ninh quốc gia của chúng tôi. Căn cứ vào bước đi sai lầm của anh sáu năm trước - mối quan hệ của anh với cặp vợ chồng người Pakistan.”
“Các anh đã giết họ! Tôi chẳng phạm tội gì hết. Tôi thú tội chỉ vì làm thế tôi sẽ không bị săn lùng. Hoặc tự sát.”
Tôi bình tĩnh tiếp tục, “Chúng tôi cần biết còn những ai liên quan nữa.”
“Liên quan tới cái gì?”
Tôi nói tiếp: “Hiểu cho tôi đi, Aslan. Tôi không phải là người thẩm vấn. Tôi chỉ đang hỏi anh những câu hỏi mà những người thẩm vấn sẽ hỏi. Tôi không cố gắng lừa gạt anh. Đó không phải là một chiến lược. Tôi đang giải thích với anh.”
“Riêng bản thân điều ấy có thể là một chiến lược,” y gợi ý với một nụ cười ngọt xớt.
“Cuộc đời mà anh đang sống đã kết thúc. Chúng tôi có thể chống lại anh bằng vụ này. Những khẩu súng, mối liên kết với Henry Loving, thực tế là anh muốn khai thác thông tin từ Joanne Kessler.”
Nụ cười phai nhạt đi một chút, khi lắng nghe những gì tôi đã biết.
Bert tiếp tục ngồi nhìn, thụ động.
Đôi mắt Zagaev liếc về phía cô ta rồi lại nhìn tôi.
“Bạn của anh là ai thế?” Y hỏi tôi. “Tại sao cô ta không nói gì hết?”
“Anh đang làm việc cho ai?”
“Tôi làm việc trong các cửa hàng thảm và nhà hàng của tôi. Tại sao lại hành hạ tôi? Anh đã gài súng vào cốp xe của tôi, anh cố gắng giết chết tôi bằng quả bom ấy. Anh sẽ gặp phải rắc rối rất lớn vì chuyện này. Tôi có quyền được mời luật sư.”
“Chúng tôi đã thu được giọng anh trên băng.”
“Là giả, những gì tôi nói là giả. Giờ tôi phát chán với chuyện này rồi. Ngài rất tẻ nhạt đấy, thưa ngài.”
Tôi thở dài.
Tôi nhìn về phía Bert. Cô ta giơ ngón trỏ lên, thật nhẹ nhàng.
Nhăn nhó, tôi ngừng lại rồi gật đầu.
Tôi lùi lại rồi đứng im.
Bert liếc mắt về phía máy quay.
Tôi bước về phía trước rồi tắt nó đi, tháo phích cắm quấn cuộn dây lại rồi tiến ra cửa, với chiếc máy quay kẹp dưới nách.
Zagaev không nói gì nhưng đôi mắt y mở to. Y đang tự hỏi tại sao tôi lại mang theo cái máy quay đi cùng. Cái gì mà tôi không muốn lưu lại để dành cho con cháu?
Khi tôi mở cửa ra, Bert đứng dậy bước vòng ra sau lưng Zagaev. Cô ta kéo rèm xuống che đi tấm gương một chiều. Cô ta nhìn hai bàn tay đang bị còng của Zagaev, rồi nhìn lên lòng y. Trên gương mặt cô ta là sự thỏa mãn. Rồi cô ta ngồi xuống bên cạnh y và rút từ trong túi áo khoác ra một cái hộp nhựa to bằng một cuốn sách bìa giấy. Nó có màu đỏ tươi, như thể lời cảnh báo rằng những thứ bên trong rất nguy hiểm.
Khi cô ta kéo khóa hộp ầm ĩ, Zagaev thở hổn hển.
Tôi bước ra ngoài, để mặc cánh cửa tự đóng chặt sau lưng mình.