Tôi ngồi trên một cái ghế mòn xơ trong văn phòng của sếp, cạnh một người đàn ông rõ ràng là biết tôi, vì anh ta gật đầu tỏ vẻ quen biết khi tôi bước vào. Tuy nhiên, ngoài việc biết anh ta là công tố viên liên bang thì tôi không thấy anh ta có điểm gì quen thuộc. Khoảng tầm tuổi tôi - bốn mươi - người lùn, hơi xanh xao, mái tóc cần cắt tỉa. Và đôi mắt xếch.
Aaron Ellis để ý ánh mắt tôi.
“Cậu nhớ Jason Westerfield, làm việc ở Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ chứ.”
Tôi không giả vờ là mình biết và cố gắng phản ứng nên chỉ bắt tay anh ta.
“Freddy đã tóm tắt cho tôi.”
“Đặc vụ Fredericks ư?” Westerfield hỏi.
“Đúng vậy. Ông ấy nói rằng chúng tôi có thân chủ tại Fairfax và một kẻ moi tin muốn lấy thông tin trong vài ngày tới.”
Giọng Westerfield cao và bổng lớn đầy khó chịu: “Biết ngay mà. Chúng tôi cũng nghe thế. Đến giờ chúng tôi vẫn chưa có thêm thông tin gì, ngoài việc kẻ moi tin đã nhận được lệnh thi hành. Kẻ nào đó cần thông tin từ đối tượng vào cuối ngày thứ Hai nếu không tình hình sẽ rất khủng khiếp. Mặc dù chẳng hiểu cái chuyện chết mẹ gì. Pardonnez moi.”1
1 Xin lỗi – ND (các chú thích của người dịch sẽ được ký hiệu là ND)
Dù tôi ăn mặc như công tố viên chuẩn bị hầu tòa, Westerfield lại mặc đồ cuối tuần. Không phải trang phục công sở cuối tuần mà là đồ đi cắm trại, quần may bằng vải bông thô, sơ mi kẻ sọc ca rô và áo gió. Không thường thấy ở District, nơi các giờ làm việc vào ngày thứ Bảy và Chủ Nhật không phải hiếm. Qua trang phục tôi nghĩ anh ta có thể là cao bồi. Tôi cũng để ý cả việc anh ta đang ngồi ghé trên mép ghế và kẹp chặt các hồ sơ bằng những ngón tay thô lỗ. Không căng thẳng - trông anh ta có vẻ không phải típ người căng thẳng - nhưng phấn khích. Sự trao đổi chất mạnh mẽ đang cháy bên trong anh ta.
Giọng nói khác, là nữ, vang lên sau lưng chúng tôi: “Xin lỗi, tôi đến trễ.”
Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi nhập bọn cùng chúng tôi. Qua kiểu cúi đầu đặc biệt tôi biết cô ta là trợ lý của Westerfield. Kiểu tóc cột chặt đến ngang vai, màu vàng hoe. Quần bò xanh mới mua hoặc mới được giặt khô, áo len dài tay trắng mặc trong áo khoác thể thao màu nâu vàng nhạt và một sợi dây chuyền ngọc trai màu kem ấn tượng. Đôi bông tai của cô ta cũng là ngọc trai và kèm theo mấy viên kim cương cũng hút mắt không kém. Cặp kính ba tròng gọng tối màu, dù tuổi cô hẵng còn trẻ, tôi có thể nhận ra từ cách cô ta khẽ cúi đầu chậm rãi khi bước vào văn phòng và chào tôi. Một người hướng dẫn phải biết các thói quen mua sắm của thân chủ - điều này rất hữu ích trong việc thấu hiểu họ - và theo bản năng tôi đã nhận ra Chanel, Coach và Cartier. Một cô gái con nhà giàu có khả năng là đứng gần đầu lớp luật tại trường Yale hoặc Harvard.
Westerfield nói, “Đây là Trợ lý Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ, Chris Teasley.”
Cô ta bắt tay tôi và cảm ơn Ellis.
“Tôi chỉ đang giải thích tình huống Kessler với họ thôi.” Rồi quay sang chúng tôi. “Chris sẽ cùng hợp tác với chúng ta trong vụ này.”
“Cùng nghe các chi tiết nào,” tôi nói, để ý mùi hương trên người Teasley đang tỏa đầy không gian, hương hoa thơm dịu. Cô ta mở cặp công văn với những miếng khóa cứng bảo mật rồi trao cho sếp cô ta một bộ hồ sơ. Khi anh ta đang đọc, tôi để ý thấy một bức vẽ phác thảo trên tường văn phòng của Ellis. Văn phòng nằm trong góc của ông ta tuy không lớn nhưng được trang trí một số bức tranh, vài tấm poster từ các gallery nhỏ, vài bức ảnh cá nhân và tranh do con ông vẽ. Tôi nhìn bức tranh màu nước vẽ một tòa nhà trên sườn đồi, không tệ chút nào.
Trên tường văn phòng tôi chẳng có gì ngoại trừ các danh mục số điện thoại.
“Ngồi đi.” Westerfield quay sang Ellis và tôi. “Sáng nay tôi có nghe tin từ văn phòng thực địa Charleston của FBI, Tây Virginia. Tóm lại câu chuyện là thế này, cảnh sát bang đang tiến hành một vụ giăng bẫy buôn ma túy đá ở các vùng hẻo lánh thì bắt gặp mấy dấu vân tay trên một chiếc điện thoại công cộng, hóa ra là của Henry Loving. Vì lý do nào đó các trát theo dõi và bắt giữ nghi phạm giết người không bị hủy sau khi hắn chết. À được cho là đã chết, có vẻ như vậy."
“Họ gọi cho người của chúng tôi đến tiếp quản, phát hiện ra Loving đã bay đến Charleston một tuần trước, dưới tên giả và chứng minh thư giả. Không ai biết hắn kiếm ở đâu ra. Cuối cùng, họ truy theo dấu hắn tới một nhà nghỉ tại Winfield sáng hôm nay. Tuy nhiên hắn đã trả phòng - mới hai tiếng trước, khoảng lúc tám rưỡi. Lễ tân không biết hắn đã đi đâu.”
Nhận được cái gật đầu của sếp, Teasley nói tiếp, “Theo luật mà nói, các trát theo dõi vẫn còn hiệu lực, thế nên các đặc vụ đã kiểm tra các email tại khách sạn. Một thư gửi đến và một thư gửi đi: Mệnh lệnh thi hành và xác nhận của Loving.”
Ellis hỏi, “Hắn sẽ làm gì tại Tây Virginia nhỉ?”
Tôi biết Loving rõ hơn bất kỳ ai trong phòng, nên bèn lên tiếng, “Hắn thường làm việc cùng một đồng bọn; hắn có thể đang chọn người ở đó. Cả vũ khí nữa. Hắn sẽ không thể lên máy bay nếu mang theo vũ khí. Trong bất kỳ trường hợp nào, hắn cũng sẽ tránh các sân bay quanh vùng D.C. Rất nhiều người ở đây vẫn còn nhớ nhân dạng của hắn sau… sau chuyện đã xảy ra vài năm trước.” Tôi nói thêm, “Địa chỉ Internet của người gửi thư là gì?”
“Định tuyến qua các proxy. Không lần ra được.”
“Còn các cuộc gọi đến và đi từ phòng hắn trong nhà nghỉ thì sao?"
“Mais non.”1
1 Cũng như vậy- ND
Tiếng Pháp thật bực mình. Westerfield vừa quay về từ kỳ nghỉ trọn gói hay anh ta đang học gạo nhằm truy tố một kẻ khủng bố người Algeria thế?
“Chính xác thì cái lệnh ấy đã nói gì, Jason?” Tôi kiên nhẫn hỏi.
Nhận được cái gật đầu của anh ta, Chris Teasley đảm nhận vinh dự này.
“Như các anh đã nói, nó chỉ đơn thuần là lệnh thi hành. Vậy là bọn chúng đã nói chuyện trước với nhau, cùng soạn ra các chi tiết.”
“Làm ơn nói tiếp đi,” tôi nói với cô.
Cô ta liền đọc, “‘Gửi Loving - Nội dung: Kessler. Được phép thi hành. Cần các chi tiết, theo thỏa thuận, vào nửa đêm ngày thứ Hai, hoặc những hậu quả không chấp nhận được, như đã giải thích. Ngay khi có thông tin, đối tượng phải bị trừ khử.’ Hết trích dẫn. Địa chỉ là tại Fairfax.”
Những hậu quả không chấp nhận được… mọi chuyện sẽ rất khủng khiếp.
“Có audio không?”
“Không.”
Tôi thất vọng. Phân tích giọng nói có thể cho biết rất nhiều về kẻ gọi đến: giới tính, phần lớn là về chủng tộc và vùng miền, bệnh tật, thậm chí có thể đưa ra những suy luận hình thái học hợp lý về hình dáng mũi, miệng và cổ họng. Tuy nhiên, ít nhất chúng tôi cũng biết tên của thân chủ được xác nhận, là một điểm cộng.
“Kessler là một cảnh sát trong District1. Ryan Kessler, một thám tử,” Westerfield giải thích.
1 The District: The District of columbia (Washington D.L)
“Còn câu trả lời của Loving?”
“‘Đã xác nhận.’ Chỉ có vậy.”
“Kẻ chủ mưu muốn ‘các chi tiết’” - Westerfield vẽ dấu ngoặc kép trong không khí - “vào cuối ngày thứ Hai. Các chi tiết…”
Tôi đề nghị được xem bản in ra. Nhận thấy Teasley hơi ngần ngừ, rồi cô ta đồng ý cho tôi xem khi Westerfield không phản ứng gì. Tôi đọc qua đoạn văn bản ngắn ngủi. “Ngữ pháp, chính tả và dấu chấm câu đều ổn. Cách sử dụng từ ‘theo’ rất thích hợp.” Teasley nhăn mặt trước quan sát này. Tôi không giải thích rằng cái chữ “theo như” đó, như mọi người hay nói, là thừa, cô ta không phải là đệ tử của tôi. Tôi nói tiếp, “Và những dấu phẩy thích hợp sau đồng vị ngữ, sau chữ ‘các chi tiết’, mà cô gần như không nhận thấy.”
Lúc này ai cũng nhìn tôi chằm chặp. Rất lâu trước đây tôi đã nghiên cứu ngôn ngữ học. Cả một chút ngữ văn nữa, nghiên cứu các ngôn ngữ khi phân tích văn bản. Phần lớn là để cho vui, nhưng môn học này thi thoảng cũng tỏ ra hữu ích.
Ellis vặn vẹo cổ sang một bên. Ông ta từng thi đấu vật thời đại học nhưng giờ không chơi thể thao nhiều nữa, tuy vẫn giữ được thể hình như tam giác sắt. Ông ta hỏi, “Hắn rời đi vào lúc tám rưỡi sáng hôm nay. Nhiều khả năng vì có mang vũ khí nên hắn sẽ không bay… và hắn không muốn có rủi ro bị phát hiện tại một sân bay ở đây, như cậu vừa nói, Corte. Hắn mới đi được khoảng bốn tiếng thôi.”
“Xe của hắn?” Tôi hỏi.
“Vẫn chưa thấy gì. Phía FBI đã cử một nhóm đi tìm khắp các nhà nghỉ và các nhà hàng quanh thị trấn.”
Ellis nói: “Tay Kessler này có biết kẻ chủ mưu muốn moi thông tin gì từ phía anh ta không?”
“Không có đầu mối gì,” Werstefield đáp.
“Chính xác thì tay Kessler này là ai?” Tôi hỏi.
“Tôi có vài chi tiết đây,” Teasley nói.
Khi nàng luật sư trẻ lật qua bộ hồ sơ, tôi tự hỏi tại sao Westerfield lại tìm đến chúng tôi, vốn được coi là giải pháp cuối cùng (ít nhất thì Aaron Ellis cũng thường nói về chúng tôi như thế tại các phiên điều trần ngân sách, khiến tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng rõ ràng là nó gây ấn tượng tốt trên đồi Capitol). Lực lượng Mật vụ và An ninh Ngoại giao của Bộ Ngoại giao bảo vệ các quan chức Hoa Kỳ và nguyên thủ nước ngoài. Bộ phận Bảo vệ Nhân chứng che giấu những kẻ cao quý hoặc nhơ nhuốc bằng danh phận mới và khiến họ cùng hòa nhậpvào thế giới. Mặt khác, chúng tôi giải quyết các tình huống xuất hiện bất ngờ chống lại thân chủ. Ngoài ra chúng tôi còn được gọi là đội Phản ứng Khẩn cấp về an ninh cá nhân.
Tiêu chuẩn thì mơ hồ, nhưng vì nguồn lực hạn chế, chúng tôi thường chỉ nhận lời khi thân chủ có liên quan tới những chuyện như an ninh quốc gia - như tên gián điệp tôi vừa chuyển giao cho các quý ông CIA hôm qua - hoặc y tế công cộng, như bảo vệ nhân chứng tố giác hầu tòa xử vụ bán thuốc nhiễm khuẩn không cần toa năm ngoái.
Nhưng câu trả lời đã rõ ràng khi Teasley cung cấp tiểu sử tay cảnh sát. “Thám tử Ryan Kessler, bốn mươi hai tuổi. Đã kết hôn, có một con. Anh ta phụ trách các vụ án tài chính trong hạt, mười lăm năm trong nghề, được tặng huy chương… Có thể anh đã nghe nói về anh ta.”
Tôi liếc nhìn sếp của mình, ông lắc đầu với cả hai chúng tôi.
“Anh ta là một người hùng. Vài năm trước từng được tôn vinh trên truyền thông. Anh ta hiện đang làm cảnh sát ngầm tại D.C. và vướng vào một vụ cướp trong cửa hàng bán thức ăn tại North West. Anh ta đã cứu mạng các khách hàng nhưng bị trúng đạn. Lên các bảng tin, và chương trình về cảnh sát trên kênh Discovery đã làm một số bản tin về anh ta.”
Tôi không xem ti vi nhiều lắm. Nhưng tôi thừa hiểu tình hình bây giờ. Một cảnh sát anh hùng bị kẻ moi tin như Henry Loving nhắm tới… Westerfield đã nhìn thấy một cơ hội trở thành anh hùng ở đây - chỉ đạo một vụ chống lại kẻ chủ mưu, có lẽ là vì âm mưu bất lương về tài chính nào đó mà Kessler đang điều tra. Ngay cả nếu vụ án ngầm này không lớn - cho dù nó có thể lớn - chỉ riêng việc nhắm mục tiêu vào sĩ quan cảnh sát D.C cũng là quá đủ để có mặt trong chương trình nghị sự của Westerfield. Trong chuyện này, tôi không nghĩ nhiều về anh ta cho lắm, Washington là một nơi diễn ra các hoạt động chính trị vừa riêng tư vừa công khai. Tôi cũng không quan tâm nếu sự nghiệp của anh ta sẽ lên hương sau khi đảm nhận vụ này. Tất cả những gì quan trọng với tôi đó là đảm bảo gia đình Kessler an toàn.
Và vì kẻ moi tin đặc biệt này đã nhúng tay vào.
“Alors,”1 Westerfield nói. “Giờ chúng ta biết rồi. Kessler đang chõ mũi vào chỗ không nên chõ. Chúng ta cần phải tìm hiểu ở đâu, cái gì, ai, khi nào và tại sao. Sau đó tống gia đình Kessler vào nhà tù thật nhanh rồi tiếp tục từ đó.”
“Nhà tù ư?” Tôi hỏi.
“Vâng, thưa ngài,” Teasley nói. “Chúng tôi đang nghĩ tới Trại giam Hansen tại D.C. Tôi vừa nghiên cứu và thấy rằng HDC vừa đổi mới các hệ thống báo động và tôi đã nhận được các hồ sơ nhân viên của từng lính gác nhà tù, những người rất thân thiện. Đó là một lựa chọn tốt.”
“C’est vrai.”2
1 Được rồi.
2 Đúng vậy
“Một nhà tù sẽ không khả thi đâu,” tôi nói.
“Hả?” Westerfield thắc mắc.
Giam giữ phòng ngừa, tại một nơi hẻo lánh trong trại giam, có thể hiệu quả trong vài vụ nhưng vụ này không nằm trong số đó, tôi giải thích.
“Hừm,” ủy viên công tố nói ,”chúng tôi đang nghĩ anh nên cử một người của mình vào đó cùng họ, được chứ? Hiệu quả hơn. Đặc vụ Fredericks và anh có thể thẩm vấn anh ta. Các anh sẽ có được thông tin chất lượng. Tôi đảm bảo. Khi ở trong nhà tù, các nhân chứng có xu hướng nhớ lại những chuyện mà trong hoàn cảnh khác thì họ sẽ thường không nhớ. Bên nào cũng có lợi.”
“Tôi chưa hề có kinh nghiệm trong những hoàn cảnh như thế này.”
“Chưa ư?”
“Anh tống ai đó vào trong tù, phải, thông thường một kẻ moi tin từ bên ngoài không thể vào. Và” - hất đầu về phía Teasley, thừa nhận bài tập về nhà siêng năng của cô ta - “tôi chắc chắn các nhân viên đều được tuyển chọn kỹ. Nếu là bất kỳ kẻ moi tin nào khác, thì tôi đồng ý. Nhưng chúng ta đang phải đương đầu với Henry Loving. Tôi biết hắn làm việc như thế nào. Chúng ta đưa nhà Kessler vào trong đó, hắn sẽ tìm kiếm lá bài chủ trong số các lính gác. Hầu hết bọn họ đều là nam giới, trẻ trung. Nếu tôi là Loving, tôi sẽ chỉ cần tìm ai đó có vợ đang mang thai - đứa con đầu lòng của họ, nếu có thể - và ghé thăm cô ta.” Teasley chớp mắt trước tông giọng thản nhiên của tôi. “Tay lính gác sẽ làm theo bất kỳ điều gì Loving muốn. Và một khi gia đình bên trong không có đường thoát, nhà Kessler sẽ bị mắc bẫy.”
“Như những chú thỏ con,” Westerfield nói, cho dù không mang tính mỉa mai như tôi mong đợi. Anh ta chỉ đang cân nhắc ý kiến của tôi.
“Thêm nữa, Kessler là một cảnh sát. Chúng ta sẽ gặp rắc rối nếu muốn anh ta đồng ý. Anh ta có thể đã tống cổ cả đống thẳng vào HDC rồi.”
“Thế anh định giấu bọn họ vào đâu?” Westerfield hỏi.
“Tôi chưa biết. Còn phải nghĩ đã.” Tôi đáp.
Westerfield cũng nhìn chằm chằm bức tường, cho dù tôi không thể đoán chắc anh ta đang nhìn bức tranh, giấy chứng nhận hay tấm bằng. Cuối cùng anh ta nói với Teasley, “Đưa cho anh ta địa chỉ nhà Kessler đi.”
Người phụ nữ trẻ ghi nguệch ngoạc bằng thứ chữ còn dễ nhìn hơn chữ của sếp cô ta. Khi đưa địa chỉ cho tôi, phả vào mũi tôi là một làn hương nước hoa khác.
Tôi nhận lấy tờ giấy, cảm ơn cả hai người họ. Tôi là kẻ có máu ăn thua - ở tất cả mọi dạng trò chơi - và tôi đã học được cách khiêm nhường và cao thượng trong chiến thắng, một lý thuyết tôi đã thực hành trong suốt sự nghiệp của mình. Một vấn đề phép lịch sự, tất nhiên rồi, nhưng tôi cũng biết rằng là một người chiến thắng cũng cho tôi chút lợi thế tâm lý khi gặp lại đối thủ trong tương lai.
Họ đứng dậy. Ủy viên công tố nói, “Được rồi, cứ làm những gì anh có thể đi - tìm hiểu xem ai đã thuê Loving và tại sao.”
“Ưu tiên số một của chúng tôi,” tôi đảm bảo với anh ta, cho dù không phải thế.
“Au revoir1…” Westerfield nói rồi cùng Teasley đi ra cửa, tay ủy viên công tố thì thầm nhỏ to các mệnh lệnh cho cô ta.
1 Tạm biệt.
Tôi cũng đứng dậy. Tôi phải ghé qua căn nhà trong thị trấn để lấy vài thứ cho nhiệm vụ.
“Tôi sẽ báo cáo từ địa điểm,” tôi nói với Ellis.
“Corte?”
Tôi dừng chân ở ngưỡng cửa, ngoái nhìn lại.
“Không đưa nhà Kessler vào tù… là đúng đắn, phải không? Cậu muốn đưa họ đến nhà an toàn rồi phá vụ này từ đó à?” Ông ta sẽ hỗ trợ tôi - Aaron Ellis sẽ chẳng là gì nếu không hỗ trợ lính của mình - và sẽ đồng hành về chuyên môn với tôi. Nhưng nói thật, ông ta không yêu cầu sự đảm bảo rằng không đưa họ vào diện giam giữ có ý nghĩa về mặt chiến thuật.
Điều ông ta thực sự muốn hỏi là thế này: Có phải ông ta đã quyết định đúng khi bổ nhiệm tôi, chứ không phải là ai khác, cho công việc bảo vệ các thân chủ khỏi Henry Loving? Nói ngắn gọn, liệu tôi có thể khách quan khi kẻ săn mồi vài năm trước đã từng sát hại người thầy của tôi và đã thoát khỏi cái bẫy tôi giăng ra chờ hắn?
“Một nhà an toàn là cách tiếp cận hiệu quả nhất,” tôi nói với Ellis rồi quay về văn phòng mình, tìm chìa khóa mở ngăn kéo bàn làm việc nơi tôi cất giữ vũ khí của mình.