Đường số 15 là đường có nhiều đồi núi cắt qua trái tim của Virginia thời Nội chiến, cách ngoại ô Washington bốn mươi dặm. Các điền trang rộng lớn, riêng tư trên các đường đua ngựa đồng quê cạnh tranh với những dự án phát triển giống nhau y đúc đang xâm lấn với những con phố theo chủ đề, như Camelot, quần thể thực vật, New England thời thuộc địa.
Bạn sẽ thấy những cảnh kỳ cục dọc đường cao tốc. Các trang trại đổ nát, bị bỏ hoang mà chủ nhân chưa sẵn sàng bán cho các nhà phát triển đang thèm rỏ dãi, hoặc họ chỉ đơn giản là biến mất - thường là vì họ thích sống tách biệt khỏi mạng lưới điện vì bất kỳ lý do gì. Cũng có các kết cấu đáng lo ngại, bê tông bẩn thỉu hoặc thép hoen rỉ, bao quanh là các biển báo đáng sợ và dây điện sắc nhọn, cũng gỉ sét tương tự, cây sắn dây phủ xung quanh. Chúng đã từng hỗ trợ rất nhiều nỗ lực tấn công các hệ thống phòng thủ trong thời Chiến tranh Lạnh. Ngày nay chúng ta còn không thể hạ gục các tên lửa đạn đạo liên lục địa, huống hồ gì năm mươi năm trước, nhưng điều ấy không ngăn cản quân đội hoặc lực lượng không quân cố gắng. Một số tòa nhà trong số này thực sự được rao bán nhưng vì hầu hết từng là các nhà kho bảo quản vũ khí, các chi phí làm sạch chất độc hại vì thế sẽ đắt cắt cổ.
Tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng điểm đến của chúng tôi, Nhà kho USAF-LC 193, một tòa nhà bê tông to lớn chỉ cách nhà an toàn tại Great Falls ba mươi hoặc bốn mươi phút đi xe.
Lúc này lái xe qua nhà kho tôi để ý mặt tiền bê tông và ụ đất cao mười ba - hoặc mười lăm mét, cỏ che kín mít, tòa nhà như lọt thỏm trong đó. Như McCall đã nói với Joanne, tòa nhà lùi vào trong khoảng một trăm thước. Cánh cổng đóng chặt nhưng các hàng rào xung quanh mặt tiền và hai bên nhà không gây ấn tượng uy nghiêm, có vẻ không chạy bằng điện hoặc không gắn cảm biến.
Tôi dừng xe lại. Xem xét nơi này qua ống nhòm hồng ngoại Xenonics của tôi, Pogue nói: “Hai chiếc SUV, không đọc được biển sổ. Có mấy ánh đèn bên trong tòa nhà. Một tên ở bên ngoài, không thể đoán được hắn có vũ trang hay không. Cứ cho là có đi.”
Tôi đi tiếp, tiến vào các bụi cây từ phía lề đường, rồi tắt máy. Lúc đó là tám giờ bốn lăm phút và trời tối om. Thông thường các ngôi sao chiếu sáng chói lọi ở đây nhưng đêm nay chúng lẩn đi đâu hết, nhờ những đám mây giăng kín trời. Pogue và tôi xuống xe, đợi chờ chiếc xe chạy không tải dọc con đường, làm bắn tung bụi mù cuốn theo cả đám lá rụng. Chúng tôi băng qua đường tiến tới căn nhà kho, lợi dụng bụi cây rậm rạp và những cái cây để che chắn. Pogue xem xét nơi này một lần nữa bằng ống nhòm rồi giơ lên một ngón tay trỏ. Một tên lính gác bất động.
Tôi cũng nhìn. Một thanh niên trẻ măng với mái tóc cắt ngắn gọn gàng. Gã mặc quần bò tối màu và áo len. Hai tay gã để sát sườn, khi gã quay người lại làm vài vòng tuần tra ngắn, tôi có thể thấy gã giắt khẩu súng ngắn bán tự động trên hông.
Vẫn còn cách ba mươi thước, Pogue nhét tai nghe vào tai rồi nói vào cổ áo. Tôi không thể nghe rõ các từ ngữ nhưng suy luận anh ta đang báo cáo cho Williams, sếp cũ của Joanne.
Nếu McCall khai đúng về mặt thời gian, tên chủ mưu hẳn vẫn chưa đến. Kết luận này là hợp lý vì chỉ có hai chiếc xe ở đây - xe của Loving và chiếc SUV mấy tên trông trẻ đã dùng để bắt cóc con bé. Hiện tại chắc hẳn Amanda đang bị giam giữ, cho đến khi tên chủ mưu muốn lấy thông tin từ con bé đến đây.
Lý do chúng thuê Loving là không còn ai khác sẵn sàng tra tấn một đứa bé tuổi thiếu niên, nếu cần phải làm thế....
Cô bé còn có thể biết chuyện quái gì nữa nhỉ? Một chuyện cô bé biết được từ một trong những vụ án trước đó của cha mình sao? Hay còn chuyện gì khác? Như tất cả mọi đứa trẻ mới lớn tại khu D.C. này, cô bé cũng có những người bạn có cha hoặc mẹ làm việc cho chính phủ và các nhà thầu chính phủ. Phải chăng cô bé cùng một cô bạn gái đã đọc qua các hồ sơ trong máy tính của bố mẹ, các hồ sơ được xếp loại tuyệt mật?
Nhưng câu hỏi ấy sẽ phải chờ.
Việc của chúng tôi bây giờ đơn giản thôi: Cứu con bé.
Pogue lắng nghe một lúc rồi thì thầm vài từ nữa. Rồi anh ta ngắt máy. Rướn người sang gần tôi hơn, anh ta thì thầm. “Williams nói anh chỉ huy vụ này. Chúng ta nên xử lý sao đây?”
“Tôi không muốn đợi kẻ chủ mưu. Tôi muốn cứu con bé ngay bây giờ. Nếu có thể đừng gây thương vong ít nhất một kẻ trong số bọn chúng.”
Tôi muốn một tên còn sống để biết kẻ nào đứng đằng sau chuyện này.
“Được rồi.” Anh ta liếc nhìn khẩu súng của tôi. “Anh lắp chưa?”
Ý là: Khẩu Glock của tôi có gắn giảm thanh không? Tôi hiếm khi có lý do gì để thậm chí là rút súng ra, nói gì đến chuyện chắc chắn nó khai hỏa như lời thì thầm. “Chưa.”
Anh ta trao cho tôi súng của mình. “Một tên trong phòng ngủ. Khóa an toàn bật rồi đấy.”
Anh ta bảo tôi thế vì các khẩu Glock không có chốt khóa an toàn; chúng có cò súng kép ngăn chặn cướp cò bất ngờ. Nhưng tôi đã dùng quen loại Beretta rồi, nên nhẹ nhàng trượt cần về vị trí khai hỏa. Người Ý chế tạo ra các vũ khí hiệu quả như người Áo vậy.
Tôi tò mò muốn biết lý do tại sao anh ta trao khẩu súng này cho tôi. Rồi anh ta nói: “Yểm trợ cho tôi.”
Anh ta mở ba lô rút ra mấy thanh nhựa và kim loại, gắn chúng vào với nhau thành một cái nỏ nhỏ, bằng thép.
Sự nâng cấp vũ khí...
Phải mất hai lần vuốt nhẹ cái nỏ mới hếch lên. Mũi nỏ mà anh ta nạp không có đầu nhọn mà thay vào đó là cái ống thon dài.
“Tôi phải tới gần hơn một chút,” anh ta thì thầm.
Chúng tôi di chuyển về phía trước. Tôi đi đầu, vận dụng kỹ năng định hướng và truy vết nghiệp dư học được dẫn cả hai tiếp tục đi trong yên lặng. Thoáng hồi tưởng trong tôi về cái ngày nóng chảy mỡ, dài dằng dặc ngoài San Antonio ấy, dẫn dắt những kẻ vượt biên bất hợp pháp tới chỗ an toàn, lặng lẽ và kín đáo hết sức có thể.
Pogue và tôi nhẹ nhàng tiến vào chỗ dãy cỏ dại khít nhau cách tên lính khoảng mười hai mét. Hất đầu về phía cái nỏ, Pogue nói, “Súng bắn gây bất tỉnh. Gã sẽ bị bất động trong gần hai mươi giây, thế nên chúng ta phải tới chỗ gã thật nhanh. Tôi sẽ đi trước, anh theo sau yểm trợ cho tôi bằng khẩu Beretta. Anh nghĩ thế được không?”
Ý là giết ai đó. Tôi đáp, “Được.”
Tôi nhắm khẩu súng về phía cửa, nơi bất kỳ tên cứu viện nào hẳn sẽ bước qua.
“Đi đi,” tôi thì thầm.