Về thuật ngữ y học, triệt đốt là loại bỏ các tổ chức mô. Rất nhiều các cơn nhịp nhanh do đường dẫn truyền phụ hoặc đường dẫn truyền kép nút nhĩ thất… đã được triệt đốt thành công bằng phương pháp này.
Năng lượng triệt đốt bao gồm:
Năng lượng sóng có tần số radio (RF)
Các tế bào sẽ bị phá hủy khi nhiệt độ trên 50°C. Máy phát RF tạo ra dòng điện xoay chiều 500 - 750 kHz giữa một điện cực tại đầu ống thông và một bản điện cực lớn đặt trên da bệnh nhân. Các ion trong tế bào tiếp xúc trực tiếp với ống thông điện cực triệt đốt ngay lập tức chuyển động và sinh nhiệt do ma sát. Năng lượng nhiệt sinh ra bằng cách này giảm dần theo khoảng cách từ điện cực ở đầu ống thông triệt đốt. Một tổn thương sâu 5 mm xuất hiện sau 30 - 60s, đủ để phá hủy chiều dày cơ tâm nhĩ. Ống thông triệt đốt 7F với chiều dài đầu điện cực 4 mm được coi là điện cực tiêu chuẩn nhưng nó có thể dài đến 8mm nếu cần tổn thương rộng và sâu hơn.
Nếu nhiệt độ đạt tới 100°C, nước trong các tế bào sẽ bốc hơi, gây tổn thương tim hay phá ra phía ngoài gây tràn dịch màng ngoài tim. Nhiệt độ tạo ra ở đầu ống thông luôn được kiểm soát tránh quá nóng. Máy phát năng lượng RF sẽ kiểm soát công suất, nhiệt độ và thời lượng mỗi lần triệt đốt.
Năng lượng RF được phát qua ống thông có tưới nước
Trong triệt đốt bằng RF, đầu ống thông điện cực được làm mát bởi dòng chảy của máu (được gọi là cơ chế làm mát do đối lưu), chính vì vậy phần nóng nhất của tổn thương do RF tạo ra là 1mm ngay dưới chỗ bề mặt tiếp xúc. Sự ngưng trệ dòng máu xảy ra khi tổn thương được hình thành, chính vì vậy nhiệt độ tăng lên, làm hạn chế sự lan truyền của nguồn nhiệt và vì vậy làm hạn chế kích thước ổ tổn thương. Nước muối sinh lý được bơm qua những lỗ nhỏ trên đầu ống thông điện cực với tốc độ 10 - 30 mL/giờ, liên tục làm mát đầu điện cực giúp cho gia tăng nhiệt lượng, dẫn tới tổn thương sâu và rộng hơn. Phương thức này phù hợp ở những nơi cơ tim dày như cơ thất trái, hay vùng vòi Eustachian (trong cuồng nhĩ điển hình). Việc duy trì tốc độ dòng nước muối ở mức thấp khoảng 2 mL/giờ khi triệt đốt bằng RF giúp ngăn cản hình thành huyết khối ở đầu điện cực triệt đốt, giảm nguy cơ đột quỵ khi triệt đốt RF ở nhĩ trái hoặc thất trái.
Triệt đốt lạnh (Cryoablation)
Sử dụng nitro-oxid lỏng nằm hoàn toàn bên trong ống thông triệt đốt đặc biệt, khi được giải phóng vào đầu ống thông sẽ nhanh chóng bay hơi và làm mất nhiệt vùng mô tiếp xúc với ống thông triệt đốt. Sau đó, khí được đưa quay trở về trung tâm điều khiển ống thông. Nhiệt độ mô theo dõi tại đầu ống thông giảm xuống - 30°C, làm mất hoàn toàn chức năng tế bào.
Nếu có hiệu quả (ví dụ, mất hội chứng tiền kích thích trên điện tâm đồ sau khi triệt đốt), mô sẽ tiếp tục được làm lạnh sâu hơn xuống - 70°C trong thời gian 4 phút để phá hủy vĩnh viễn tổ chức mô cần triệt đốt. Lớp băng được hình thành bên ngoài giúp ống thông gắn với mô cần triệt đốt ổn định hơn. Nếu có biến chứng xảy ra (block nhĩ thất) ở - 30°C, mô sẽ được làm ấm lại, theo lý thuyết sẽ không gây ra tổn thương vĩnh viễn.