7 Biến chứng của triệt đốt qua ống thông

Tỷ lệ các biến chứng nặng trong triệt đốt cơn nhịp nhanh trên thất (SVT) là < 1% và với các rối loạn nhịp tim phức tạp (rung nhĩ, nhanh thất) là 3%. Các vấn đề cụ thể trong triệt đốt rung nhĩ sẽ được thảo luận sau.

7.1. Biến chứng nặng

- Tử vong (< 0,1%).

- Chảy máu: Thông thường chỉ sử dụng đường vào đường tĩnh mạch, do đó, hiếm khi gây các tổn thương mạch máu nghiêm trọng cần phải phẫu thuật. Tuy nhiên, biến chứng chảy máu có thể nặng nề trong trường hợp có sử dụng heparin hoặc warfarin. Khối tụ máu (haematoma) có thể do chảy máu động mạch hoặc tĩnh mạch kéo dài, thông động - tĩnh mạch hoặc giả phình mạch. Khối máu tụ lớn tại chỗ chọc mạch hoặc tụ máu sau phúc mạc có thể cần phải truyền máu. Khi đó có thể cần phải ép cầm máu và đảo ngược chống đông bằng protamine, truyền yếu tố VIII tái tổ hợp (hoặc huyết tương tươi đông lạnh (fresh frozen plasma (FFP)) và vitamin K. Siêu âm và chụp CT có thuốc cản quang (CT mạch) được sử dụng để chẩn đoán nguyên nhân và mức độ chảy máu.

- Đột quỵ não (< 0,2% đối với SVT): Nguy cơ xảy ra đột quỵ cao hơn khi thực hiện các thủ thuật bên tim trái hoặc khi chuyển nhịp rung nhĩ/ cuồng nhĩ về nhịp xoang. Các phương pháp dự phòng: Siêu âm tim qua thực quản trước thủ thuật, sử dụng heparin trong thủ thuật theo ACT, chống đông sau thủ thuật (aspirin hoặc warfarin), sử dụng ống thông điện cực được tưới nước, truyền liên tục dung dịch muối sinh lý có pha heparin qua dụng cụ mở đường khi thực hiện thủ thuật bên tim trái, triệt đốt áp lạnh.

- Ép tim cấp (< 0,2% đối với SVT): Nguy cơ xảy ra biến chứng này cao hơn nếu có chọc vách liên nhĩ nhưng cũng có thể xảy ra ngay cả trong các thủ thuật để chẩn đoán. Huyết áp (HA) phải được theo dõi trong suốt thời gian làm thủ thuật và mọi trường hợp có tụt huyết áp phải nghĩ đến có chèn ép tim hay không. Phòng can thiệp điện sinh lý phải được trang bị máy siêu âm xách tay và bộ dụng cụ chọc hút dịch màng ngoài tim cấp cứu. Các bác sĩ thực hiện thủ thuật chọc vách liên nhĩ cần phải biết chọc hút dịch màng ngoài tim một cách thành thạo.

- Block nhĩ - thất (< 1% đối với SVT): Nguy cơ xảy ra block nhĩ - thất cao hơn khi triệt đốt đường dẫn truyền phụ vùng vách hoặc AVNRT (triệt đốt đường chậm). Trong khi triệt đốt, phải theo dõi liên tục vị trí ống thông triệt đốt trên màn tăng sáng và điện đồ nhĩ, điện đồ thất. Nếu xuất hiện block nhĩ - thất hoặc di lệch ống thông triệt đốt, phải dừng triệt đốt lại ngay. Triệt đốt lạnh (Cryoablation) có thể thích hợp cho các trường hợp có nguy cơ cao xảy ra block nhĩ - thất.

- Huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc mạch phổi (PE): Do đặt nhiều ống thông điện cực trong các tĩnh mạch nhỏ và trong thời gian dài. Nếu bệnh nhân có nguy cơ bị huyết khối, sử dụng heparin và truyền tưới dịch liên tục qua dụng cụ mở đường vào mạch máu (sheath) v.v...

- Co thắt động mạch vành/NMCT: ST chênh lên thoáng qua và đau thắt ngực có thể xảy ra mà không để lại hậu quả lâu dài do co thắt mạch vành.

- Tràn khí màng phổi: Chỉ có thể xảy ra khi chọc tĩnh mạch dưới đòn để đặt ống thông điện cực xoang vành.

- Phơi nhiễm tia X: Các ca thăm dò điện sinh lý có thể kéo dài. Tổn thương da có thể tránh được bằng các biện pháp tránh phơi nhiễm tia X. Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản phải loại trừ thai sản trước can thiệp. Phương pháp đặt ống thông điện cực không cần màn tăng sáng (Carto, NavX) ngày càng phổ biến hơn.

7.2. Các biến chứng nhẹ

Đây là những biến chứng khá phổ biến. Sử dụng tối ưu các thuốc gây tê tại chỗ và an thần (kết hợp thuốc opiate và thuốc benzodiazepine tĩnh mạch) có thể dự phòng được.

- Đau ngực: Xảy ra thoáng qua trong quá trình triệt đốt.

- Cường phế vị: Thường xảy ra trong quá trình đưa dụng cụ mở đường qua da lúc đầu.

- Đau vùng bẹn, bầm tím hoặc tụ máu: Thường gặp ở vị trí chọc mạch, đặc biệt nếu sử dụng thuốc chống đông.