21.1. Phát hiện cơn nhịp tim nhanh
Máy phá rung tự động (ICD) đo các khoảng thời gian giữa các điện đồ thất được máy nhận cảm thành công và do vậy đo được tần số thất. Nếu tần số nằm trong vùng lập trình (ví dụ 190 nhịp/phút) thì cơn nhịp tim nhanh sẽ được phát hiện. Hầu hết các loại máy này có ba vùng phát hiện như: vùng nhịp nhanh thất (tần số từ 170 - 220 nhịp/phút), nhịp nhanh thất nhanh (200 - 230 nhịp/phút) và rung thất (> 230 nhịp/phút). Mỗi vùng sẽ được lập trình phương thức điều trị khác nhau. Nếu không được lập trình điều trị thì đó là vùng theo dõi.
Phân biệt nhịp nhanh trên thất với nhanh thất/rung thất
Không phải tất cả các cơn nhịp tim nhanh có tần số thất > 170 nhịp/phút đều là nhịp nhanh thất. Nhịp nhanh trên thất như nhịp nhanh xoang, AVNRT, AVRT, nhịp nhanh nhĩ và rung nhĩ đều có thể có tần số thất > 170 nhịp/phút. Sơ đồ phân biệt được đưa ra nhằm phân biệt những rối loạn nhịp không đe dọa tính mạng này với nhịp nhanh thất và để dự phòng những điều trị không phù hợp và đau đớn. Khi tần số thất rất nhanh, ví dụ > 220 nhịp/phút thì hầu hết là nhanh thất/ rung thất và không cần phân biệt.
Phân biệt nhịp nhanh trên thất với nhịp nhanh thất/ rung thất
Sơ đồ phân biệt trong ICD sử dụng kết hợp những thông số sau:
- Phân ly nhĩ thất:
• Tần số V > tần số A: luôn là VT/VF.
• Tần số V = tần số A: SVT hoặc VT.
• Tần số V < tần số A: thường là rung nhĩ, nhịp nhanh nhĩ nhưng cũng có thể là nhịp nhanh thất (ví dụ: rung nhĩ và nhịp nhanh thất)
- Hình thái điện đồ trong cơn nhịp nhanh:
• Giống như trong nhịp xoang: nhịp nhanh trên thất.
• Khác với trong nhịp xoang: nhanh thất hoặc nhịp nhanh trên thất với block nhánh.
- Khởi phát cơn nhịp nhanh:
• Đột ngột: nhịp nhanh thất hoặc trên thất.
• Từ: nhịp nhanh xoang.
- Sự ổn định của khoảng VV trong cơn nhịp nhanh:
• Không ổn định: rung nhĩ hoặc rung thất.
• Ổn định: Nhịp nhanh thất hoặc nhịp nhanh trên thất.
21.2. Các phương thức điều trị
Một khi máy phát hiện ra cơn nhịp nhanh và xác định đó là nhịp nhanh thất hoặc rung thất, nó sẽ đưa một trong hai phương thức điều trị tùy thuộc vào vùng tần số đã được lập trình như thế nào. Các biện pháp điều trị đó có thể bị ảnh hưởng trong phổ từ trường.
a. Tạo nhịp chống nhịp nhanh (ATP)
Đó là một chuỗi các xung động tạo nhịp được phát ra nhằm nỗ lực tạo nhịp vượt tần số và cắt cơn nhịp nhanh thất nhưng nó không hiệu quả cho rung thất. Máy sẽ phát ra một số xung tạo nhịp (thường 6 - 12 xung) với chu kỳ cố định, dựa trên thời gian chu kỳ cơn nhịp nhanh đo được (thường là 80%). Chuỗi xung này có thể được lặp lại với thời gian chu kỳ ngắn hơn (tạo nhịp nhanh hơn). Trong khi tạo nhịp chuỗi, thời gian chu kỳ có thể được rút ngắn dần lại (= tạo nhịp bậc thang). Nếu ATP không thể cắt được cơn nhịp nhanh, máy sẽ thực hiện một nhát sốc.
b. Phá rung
ICD tạo ra năng lượng tối đa lên tới 40 J với dòng 2 pha từ cuộn dây sốc ở điện cực thất phải tới bộ tụ điện. Hướng của dòng điện sốc từ thất phải lan truyền từ thất phải hướng lên phía trên bao trùm hầu hết vách liên thất và thất trái. Nếu điện cực có cuộn dây sốc kép hoặc một cuộn dây sốc riêng biệt ở tĩnh mạch chủ trên, máy có thể thực hiện sốc giữa hai cuộn dây hoặc giữa vỏ máy với mỗi cuộn dây sốc này. Tất cả các nhát sốc nên được lập trình ở mức năng lượng tối đa.