• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Tập 2
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 47
  • Sau

Nghệ thuật

Khi Phật giáo phổ cập phát triển, tự nhiên sẽ có những biểu hiện ở phương diện hội họa, điêu khắc và kiến trúc (ba loại hình nghệ thuật đặc biệt có mối quan hệ nội hàm mật thiết ở Ấn Độ và đôi khi được xem là một:69 kiến trúc cùng với những bộ phận kéo theo), cũng như thi ca, chuyện kể và kịch tuồng. Kiến trúc tháp, thiết trí những trụ đá kỷ niệm với những tác phẩm điêu khắc biểu tượng và kiến trúc chùa như đã nói ở trên, đồng thời sử dụng điêu khắc theo lối mô tả (chạm nổi), không nghi ngờ chúng được xuất phát từ tranh miêu tả, hiện nay vẫn tồn tại một số làm ví dụ.

69. Xem IKL I tr. 31-2.

Có nhiều dấu tích cho thấy phong cách điêu khắc bia đá thời Mauryan tiếp tục thịnh hành ở Pāṭaliputra và Mathurā, nhưng sự phát triển đáng chú ý nhất ở thời kỳ suy tàn của vương quốc Madhaga và thời kỳ hưng khởi của Āndhra, là sự cải tiến tinh xảo của những ngôi tháp cổ, thêm lan-can phụ, cổng vào, mái hiên, cầu thang..., được trang trí với những tác phẩm điêu khắc tả thực và biểu tượng (tròn và nổi). Trong đó, những kiến trúc còn được bảo lưu tinh xảo nhất là quần thể vĩ đại ở Sāñcī (thuộc núi Caityagiri gần Vidiśā, xem tr. 374, tập 1), và ở Bhārahat (phía Nam Kauśāmbī trên đường đi đến Vidiśā), hiện được chuyển vào Bảo tàng Calcutta, một số phù điêu lẻ tẻ ở thời này vẫn còn ở Bodh Gayā. Ngoài những biểu tượng (trong đó có hoa sen, tượng trưng cho vô nhiễm, thanh cao) và vô số loài hoa, cây dây leo, thiên thần và nữ thần cùng với các loài động vật đứng làm thị giả, nét đặc sắc nổi bật trong những tác phẩm điêu khắc này là sự mô tả những câu chuyện trong kinh Bổn sinh (Jātaka), và một vài cảnh về cuộc đời đức Phật (không trình bày trực tiếp về Ngài mà chỉ bằng biểu tượng: bảo tòa, pháp luân, dấu chân, bảo cái, cây bồ-đề, bảo tháp..., tuy nhiên hình ảnh Bồ Tát chỉ được minh họa trong kinh Bổn sinh). Những sự kiện liên tục trong các tác phẩm điêu khắc này được miêu tả thành ‘tổ hợp’ với những ô dài, có thể phục chế thành một cuộn tranh bằng vải. Nghiêm túc mà nói, đây không phải là những tổ hợp, mà phong cách chính là tính sống động của nghệ thuật; cách vẽ biểu đạt những đôi mắt lần lượt bị thu hút vào nhân vật chính và tính cách phản ánh lại qua. Trong suốt giai đoạn này, thể loại nghệ thuật điêu khắc những câu chuyện tinh túy trong kinh Bổn sinh dần dần giảm đi mà tập trung vào một vài câu chuyện phổ thông nhất, đồng thời những cảnh cuối đời của đức Phật lại gia tăng. Điều này cực kỳ phù hợp với xu hướng mà chúng ta đã phát hiện trong văn học, đó là nhiều bộ kinh Bổn sinh được sưu tập vào Ba tạng giáo lý và ít ghi chép về cuộc đời đức Phật; những truyện ký truyền thuyết được biên soạn chu đáo về sau này.

Trong khi đó, ở giai đoạn này kiến trúc và điêu khắc của những trường phái mới phát triển rực rỡ mang nét nguyên thủy trong lãnh thổ của triều đại Sātavāhana, ở cả Mahārāṣṭra và Āndhra cũng cho thấy cùng xu hướng. Ở Mahārāṣṭra vẫn duy trì lối cũ, phát hiện một số lớn tháp và chùa theo mô hình hang động (ở Ellora và Ajaṇṭā, trên đường từ phía Bắc Mahārāṣṭra đến Avanti, Nāsikā và dọc theo bờ biển ở đây). Thực tế đây là chứng cứ sử liệu chính thức về kiến trúc của chúng ta ở giai đoạn này, bởi vì kiến trúc hang động mới sót lại, còn kiến trúc ở mặt đất thì đã bị quét sạch từ lâu ngoại trừ một số nền móng của chúng. Ở Āndhra, chùa tháp hình cầu nguyên thủy trở nên cao hơn, như thế chiều cao của vòm tương đương với đường kính ở nền móng (nhưng minh chứng tiêu biểu nhất là chùa tháp ở Amarāvatī gần Dhāyakaṭaka, đã bị san bằng sát đất; một số phù điêu được bảo tồn ở một bảo tàng nhỏ ngay trên mảnh đất đó, một số khác nằm ở Bảo tàng nước Anh tại London). Một yếu tố mới trong những phù điêu này thể hiện luật xa gần ở nhiều góc độ của phù điêu, chiều sâu nhìn từ mặt trước, gần hơn về phía sau.

Chùa tháp và điêu khắc thời kỳ này ở Tích Lan (triều đại vua Duṭṭhagāmaṇi, người kế vị ông là Saddhātissa, rồi đến Vaṭṭagāmaṇi và những người thừa kế của ông ta) rất giống với nghệ thuật kiến trúc ở Āndhra. Ở đây chùa tháp được bảo quản tốt hơn: Một ngôi tháp lớn ở Chùa Lớn (Mahāvihāra) do vua Duṭṭhagāmaṇi phát tâm xây dựng (và vua Saddhātissa?), cao 300 feet, đường kính gần 200 feet (từng được trùng tu nhưng kích thước dường như vẫn giữ nguyên); và một ngôi tháp do vua Vaṭṭagāmaṇi phát tâm xây dựng ở Abhayagiri, cao 350 feet, đường kính 355 feet (cả hai ngôi tháp cao 400 feet, đều được xây dựng khoảng năm 300 ở thời kỳ phân chia của Thắng Lâm Bộ [Jetavanīya]).

Về cuối giai đoạn này, bắt đầu phong trào điêu khắc tái hiện hình ảnh đức Phật, kể cả sự kiện cuối đời của Ngài. Niên đại sớm nhất được biết cho những minh chứng này dường như không xa với buổi đầu của thế kỷ I TL70 và nơi bắt nguồn có lẽ là từ Mathurā hoặc Kauśāmbī. Nhưng câu chuyện truyền thuyết mô tả ngôi tượng đầu tiên được vua Udayana của triều đại Paurava ở nước Vatsa thuộc đế quốc Kauśāmbī ra lệnh cho làm ra trong thời đức Phật còn sống: Những nghệ nhân thủ công đã tạc tượng này bằng gỗ đàn hương dưới sự hướng dẫn của tôn giả Mục-kiền-liên. Dĩ nhiên, trong tất cả các ngành kiến trúc và điêu khắc chúng ta biết không có tác phẩm bằng gỗ này mà có lẽ đã được tạc bằng đá (ngoại trừ thợ chạm đá mô phỏng lại kết cấu của thợ chạm gỗ, thực tế họ cũng thường làm như vậy) và những hình thức đó chắc chắn càng thịnh hành ở mọi thời đại.

70. Nhà sử học nghệ thuật có thảo luận gần đây nhất, mời xem Willets: Chinese Art, London, 1958, Vol. 1, tr. 325 trở xuống và 316 trở xuống.

Thực tế tranh vẽ ở thời kỳ này không còn gì tồn tại ngoài những bức bích họa sớm nhất ở Ajaṇtā, cho thấy có cùng truyền thống miêu tả (những câu chuyện tiền kiếp cũng có cảnh người hành hương chiêm bái bảo tháp hoặc cây bồ-đề, họ là ai cũng không xác định được - vua Āśoka?) và sự miêu tả hữu tình về các loại hoa cỏ, động vật.

Chùa chủ yếu gồm một khuôn viên vuông vắn, các phòng ở của chư Tăng bao quanh, có thể ba tầng hoặc hơn. Ở giữa sân là một chính điện nhỏ được kiến thiết với nhiều trụ bằng gỗ hoặc đá. Thông thường ở bên cạnh một ngôi chùa (chính điện) được kiến thiết một ngôi bảo tháp nhỏ (sau này thỉnh thoảng được thiết trí một tượng Phật), xung quanh là đường đi có dựng nhiều trụ; những trụ này đặt song song men theo đường đi được chia làm hai bên dẫn đến chính điện, đi vào chùa bằng cửa chính hoặc bằng hai cửa phụ ở hai bên; mái chùa hình cong được dựng trên nhiều trụ, bên ngoài có mái hiên hoặc lối đi với các dãy trụ lớn. Hội trường dành cho lễ bố-tát (poṣadha) cũng nằm bên cạnh, ngoài ra còn có nhà bếp, nhà ăn, nhà tắm... tạo thành một phần của kiến trúc chùa và thường bố trí đằng sau các dãy nhà ở của chư Tăng. Trong khuôn viên một ngôi chùa thường có cây bồ-đề xung quanh có rào chắn.

Văn hóa sinh động của thành Mathurā ngày càng trở nên phong phú dưới thời đại của những vị vua nước Quý Sương (Kuṣāna). Ở thời đại của họ thành phố này đã trở thành thủ phủ (và là một trung tâm kịch tuồng nổi tiếng), nghệ thuật Phật giáo và những giáo phái khác cũng hưng thịnh. Trong khi đó chúng ta thấy ở Gandhāra thịnh hành phong cách điêu khắc ảnh hưởng lạ lùng, rõ ràng được sáng tạo bởi những nghệ nhân người Hy Lạp quy y Phật giáo (hoặc làm việc cho Phật giáo): Những chủ đề thuộc Phật giáo, nhưng kỹ thuật phần lớn xuất phát từ trường phái văn hóa cổ đại Hy Lạp (Hellenistic school). Khi so với tính đầm ấm của điêu khắc Ấn Độ thì tác phẩm của họ biểu hiện tính tĩnh lặng mang truyền thống Hy Lạp. Trong suốt thời đại Quý Sương, khi chúng ta tìm theo dấu vết thì phát hiện có sự tương tác qua lại giữa những trường phái của Śūrasena và Gandhāra, nhưng nghệ thuật Gandhāra dần dần bị truyền thống chính của Ấn Độ đồng hóa, rồi xuyên qua Gandhāra truyền sang Trung Á và Trung Quốc.