Phong trào Đại thừa tuyên bố đức Phật đã sáng lập nên trường phái này, mặc dù ban đầu chỉ hạn chế trong những thính chúng đặc biệt. Tuy nhiên, bằng chứng đều nhất trí rằng Đại thừa xuất phát từ Ấn Độ vào thế kỷ I TL. Ngay trong kinh điển Đại thừa một số chỗ nói rằng1 sau khi đức Phật nhập Niết bàn, một số người đã truyền bá giáo lý này ở Nam Ấn Độ, sau đó truyền bá những kinh điển này sang phương Đông2 rồi truyền lên phương Bắc. Nhiều vị thầy lãnh đạo của tư tưởng mới này ra đời ở Nam Ấn Độ, tu học tại đây, sau đó hoằng truyền lên phía Bắc. Một trong những vị thầy đầu tiên của Đại thừa là Long Thọ (Nāgārjuna). Những kinh điển quan trọng của trường phái này đều liên quan mật thiết với Nam Ấn Độ, chẳng hạn như Đại phương quảng phật hoa nghiêm kinh (Gaṇḍavyūha), kinh mô tả có một hành trình thể hiện chi tiết để đến đó và nơi mà Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) đang ở, còn Lăng già kinh (Laṅkāvatāra) liên quan đến Tích Lan (cả hai kinh ra đời khá muộn và thể hiện diện mạo mới của Đại thừa, điều này chúng ta sẽ thảo luận ở chương kế tiếp, nhưng đều cho thấy rằng lúc bấy giờ ở Nam Ấn Độ việc biên soạn kinh điển Đại thừa diễn ra rất mạnh mẽ, mà có lẽ là một hoạt động sáng tạo liên tục có từ trước đó). Quan niệm cho rằng những kinh điển này chỉ hạn chế ở phía nam dĩ nhiên để giải thích cho Phật giáo ở phía bắc hiểu nguyên nhân họ chưa được trực tiếp nghe những kinh điển này từ chính những vị thầy của họ, mà không chấp nhận rằng chúng được soạn ra gần đây. Những nhà viết sử Phật giáo3 chọn cách giải thích rằng, mặc dù đức Phật đã thuyết ra những kinh điển này nhưng hoàn toàn không được lưu hành trên thế gian qua nhiều thế kỷ, bởi vì không có những bậc thầy đủ khả năng giảng giải và học trò đủ thông minh để hiểu. Tuy nhiên theo truyền thuyết bảo rằng những kinh điển này được cất giữ ở Long cung và ở cảnh giới phi nhân, đợi đến thế kỷ II TL thì những bậc thầy có đủ trí tuệ để hiểu được những kinh điển này xuất hiện ở Ấn Độ, thế là một số lớn kinh điển này đã được họ tìm về và cho lưu hành rộng rãi. Điều này cho chúng ta biết rằng, những kinh điển này phải đợi đến thế kỷ II TL mới được lưu hành. Rõ ràng ở đây đã ghi chép truyền thuyết lịch sử thuộc về Bắc Ấn Độ và phần lớn thuộc về Nālandā (vương quốc Ma-kiệt-đà). Sự xuất hiện bất ngờ của những bậc thầy và kinh điển này có lẽ đòi hỏi sự chuẩn bị và phát triển trước đó, điều này chúng ta có lẽ nên tìm hiểu tình hình ở phương nam.
1. Aṣṭasāhasrikāprajñāpāramitā (Kinh Bát Nhã tám nghìn kệ tụng), tr. 225. Những tham khảo khác xem Lamotte, MPPŚ (Đại trí độ luận) Vol. I, tr. 25 trở xuống.
2. Một cách nói khác: ‘phía Tây’.
3. Tāranātha, Chương 13: xuất hiện nhiều bậc đại sư, rồi viết ra Đại bảo tích kinh (Ratnakūṭa) và những kinh điển Đại thừa, sau đó được truyền bá đến Nālandā (ở thời vua Kaniṣka).
Mặt khác, khi quan sát hoàn cảnh thích hợp cho sự phát triển của những lý tưởng Đại thừa, chúng ta tự nhiên phải tìm hiểu những trường phái thuộc Đại chúng bộ. Trên thực tế, người theo Đại thừa xem những trường phái ấy như tiên phong cho phong trào này, chẳng hạn như Paramārtha (Chân Đế),4 là người trong số đó đã tìm cầu giáo nghĩa và truyền thống Đại thừa. Chúng ta đã chú ý đến thiên hướng tư tưởng phát triển trong những trường phái thuộc Đại chúng bộ, đặc biệt là Chế đa sơn bộ ở Āndhra, mở ra con đường đầu tiên cho tư tưởng Đại thừa. Một số kệ tụng được trích xuất từ truyền thống Đông sơn trú bộ (Pūrva Śaila), cũng được xem là ‘kệ tụng của Đông sơn trú bộ’ hoặc ‘thuộc kinh điển của A-hàm (do đó cũng thuộc Ba tạng giáo lý của trường phái này), được triết gia Nguyệt Xứng5 của trường phái Đại thừa Trung Quán trích dẫn như những chứng cứ uy tín cho tư tưởng trường phái của ông ta, rằng tất cả các pháp không có tự tính, sinh khởi (hình thành) và mất đi, cho nên đức Phật nói duyên khởi và tịch diệt chẳng qua là dùng cách nói thông thường để thích ứng với những quan niệm của thế gian (nếu không người khác sẽ không hiểu).
4. Demiéville MCB I, tr. 19 trở xuống.
5. Madhyamakāvatāra (Trung Quán Luận), tr. 134 trở xuống; Prasanna- padā (Trung Quán Luận tịnh tín sớ), tr. 548. Xem Lamotte trong Asiatica, tr. 387, về kinh Prajñāpāramitās Ba tạng giáo lý Prakrit của trường phái Śailas (Sơn trú bộ).
Có khả năng Đông sơn trú bộ muốn dùng những kệ tụng này để đề cập đến sự bất sinh và bất diệt của ‘chúng sinh’ và của ‘thế giới’ ở nghĩa tổng thể của ‘chúng sinh’ hay ‘con người’, mà Nguyệt Xứng đã đưa chúng liên hệ với tất cả các pháp. Nhưng những kệ tụng này chí ít cũng có hàm nghĩa mơ hồ, cho nên để ông đưa ra quan điểm của mình và đứng sát với ranh giới giữa học thuyết không có ‘ngã’ và học thuyết không có ‘pháp’ (trong nghĩa ‘chúng sinh’ thực tại tuyệt đối), ám chỉ rằng Đông sơn trú bộ hầu như đã đạt đến lập trường đặc trưng của Đại thừa, chỉ có chút ít khác biệt giữa ‘ngã’ và ‘pháp’ (liên quan đến chứng cứ này, tham khảo tr. 198 trở xuống, tập 1, nhưng chúng ta sẽ quay trở lại chi tiết giáo nghĩa Đại thừa ở sau). Kết luận này dường như chỉ cho thấy rằng sau khi thành lập Đông sơn trú bộ ở thế kỷ I TTL một thời gian, những vị tỷ-kheo cảm thấy không cần đưa ra giải thích mới đối với kinh điển nguyên thủy (ví dụ như những văn bản Luận tạng mới hoặc luận Vô ngại đạo (giải) đạo luận của Thượng tọa bộ) nhưng phải diễn đạt lại toàn bộ hệ thống giáo lý này.6 Với mục đích như vậy, họ đã biên soạn lại kinh điển, hoặc viết ra những bản kinh mới, nội dung cũng như phong cách giống nhau, đủ uy tín, nhưng cách bố trí khác nhau, trọng điểm khác nhau, nếu khảo sát kỹ cho thấy có những đoạn mới thỉnh thoảng được thêm vào giữa chuỗi công thức cổ điển, mở ra con đường mới của tư tưởng.
6. Để giải quyết chứng cứ nơi bắt nguồn kinh điển Đại thừa, truyền thống Tích Lan đưa kinh Ratnakūṭa về Āndhras (EHBC tr. 100).
Khi biên soạn những văn bản mới, phương tiện thiện xảo được sử dụng như thế nào, đây là vấn đề cần được tìm hiểu. Ở thời kỳ truyền miệng, xem ra có khả năng ngẫu nhiên phát sinh ít nhiều phiên bản mới của kinh văn cũ, những tình tiết mới được thêm vào kinh điển, thậm chí là tác phẩm chú giải hoặc sổ tay tóm tắt do một vị tỷ-kheo biên soạn, nhưng chỉ mơ hồ lấy được những thứ trang sức của một bản kinh. Tuy nhiên ở một vài giai đoạn, nếu không tìm được nguồn gốc của kinh điển Đại thừa, chúng ta có thể bảo vệ được niềm tin chân chính của những vị tỷ-kheo Đại thừa chỉ bằng cách suy đoán rằng họ đã tin vào chính họ phải có trí huệ bằng trực giác và linh cảm về những kinh điển cho nhân loại mà không truyền thừa trong Ba tạng giáo lý nguyên thủy, mặc dù đức Phật nói cho thính chúng loài người nhưng họ không thể tiếp nhận hoặc cho những thính chúng loài trời. Tóm lại, một vị tỷ-kheo phải triệt ngộ đến trình độ như vậy để tự chứng đắc ‘nhất thiết chủng trí’ đối với những sự việc quá khứ, hoặc vị ấy phải quán tưởng bằng thiền định để nhờ vào thần lực siêu nghiệm gia trì mà hiểu được một bản kinh được chư thiên và loài rồng cất giữ.
Trường phái Đại thừa (Mahāyāna), ‘Bánh xe lớn’ hay ‘Cỗ xe lớn’ (chuyên chở hết thảy chúng sinh đến Niết bàn), chính xác và đích thực hơn còn gọi là Bồ Tát thừa (Bodhisattvayāna), cỗ xe của Bồ Tát.