Đặc điểm nổi bật của Đại thừa hay Bồ Tát thừa là giáo lý của tư tưởng Bồ Tát. Do đó, Nguyệt Xứng phân biệt những tính chất đặc trưng của Đại thừa (có sự siêu việt đối với giáo lý nguyên thủy, mà giáo lý đó được những nhà Đại thừa cho là hơn hẳn Thanh văn thừa (Śrāvakayāna), ‘cỗ xe của người đang học’, và hầu như tín đồ của trường phái này chỉ là những Phật tử tại gia chứ không phải là Sa-môn đích thực, khi họ gọi một cách tử tế; và gọi là Tiểu thừa (Hīnayāna), ‘cỗ xe nhỏ’, khi họ cố ý chế nhạo vô lý), và cũng đưa ra bảy ưu điểm.7 Trong đó có sáu điểm liên quan đến việc thực hành của Bồ Tát, chỉ có một điểm liên quan đến tính chất của vũ trụ. Hẳn nhiên, trên nguyên tắc, việc thực hành tư tưởng Bồ Tát hướng đến quả vị Phật không có gì mới. Khái niệm này được tìm thấy trong những văn bản của Ba tạng giáo lý nguyên thủy liên quan đến đức Phật trước khi thành đạo, và cũng liên quan đến những vị Phật khác (ở quá khứ) trước khi những vị Phật này thành đạo.8 Hơn nữa, trong những bộ kinh Bổn sinh có miêu tả đời sống kiếp trước của Ngài dường như do chính đức Phật nói lại và cho dù thế nào ở trước thế kỷ IV TTL cũng đã phổ cập trong các trường phái có từ sớm. Chỗ khác nhau là đối với những trường phái có từ sớm này (có lẽ ngoại trừ Chế đa sơn bộ), những câu chuyện trong kinh Bổn sinh và câu chuyện tiền thân của các vị Phật có thể nói là cách miêu tả thuần túy, đơn giản để khích lệ niềm tin với đức Phật, bởi vì việc tu tập con đường Bồ Tát của Đại thừa là nguyên tắc nguyện lực: Con đường Bồ Tát đã thay thế, hoặc ít nhất ưu việt hơn Bát chính đạo trước đây. Một vị tỷ-kheo không trực tiếp lấy Niết bàn làm mục tiêu, mà trước tiên là trở thành một vị Phật, đây là thành tựu cao nhất và vì lợi lạc lớn nhất của vũ trụ, vì thế giới vô biên và thời gian vô cùng cho nên cần đến nhiều vị Phật mở bày Phật pháp cho nhiều thế giới, hoặc trùng hưng Phật pháp, những nhu cầu này không bao giờ nguôi. Hiển nhiên, đây là mục tiêu cao cả, cho nên một vị Bồ Tát ‘hoãn’ lại sự nhập diệt của mình cho đến khi hoàn thành sự nghiệp cao cả này vì hạnh phúc của hết thảy chúng sinh mới trở thành một vị Phật.
7. Madhyamakāvatāra (Trung Quán Luận) tr. 22, đã trích dẫn từ Bảo Hạnh Vương kinh (Ratnavalī) ở tr. 23, về điểm này chỉ đề cập đến địa và hạnh của Bồ Tát.
8. Mahāvadāna (Đại thí dụ kinh) trong Dīrgha (Trường A-hàm). Xem OBM., tr. 8 trở xuống về những điểm này.
Tự nhiên không cần nói cũng biết, trên quan điểm của giáo lý Đại thừa, con đường của Bồ Tát gian nan hơn hẳn một bậc A-la- hán. Chỉ có Thượng tọa bộ mới duy trì một tiêu chuẩn cao đối với địa vị A- la-hán, mà trong đó một vài vị hy vọng đạt đến Niết bàn ở kiếp này và hầu hết đạt được thành tích đủ để bảo đảm cho cơ hội tốt hơn ở lần sau. Trong khi đó, những vị Bồ Tát có thể có được nhiều thời gian để giáo hóa người khác. Ngược lại, Đại chúng bộ cho rằng để trở thành A-la-hán là việc khá dễ, cứ cho rằng một người có một số nhược điểm chưa hoàn toàn giải thoát được thể tính của con người vẫn có thể được xem là A-la-hán. Đối với quan điểm Đại thừa, để trở thành A-la-hán là con đường dễ dàng nhanh chóng, lảng tránh trách nhiệm đối với những thế hệ sau và thế giới tương lai. Làm một bậc A-la-hán như thế cảm thấy thiếu từ bi. Đại chúng bộ tách A-la-hán ra khỏi Phật và cuối cùng đưa Phật lên vị trí tồn tại siêu nghiệm, không chỉ là một chúng sinh đã giác ngộ. Như vậy, đây là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của Đại thừa.
Những kinh điển Đại thừa sớm nhất hiện còn dường như trong đó có một số được sưu tập từ kinh tập Đại bảo tích (Ratnakūṭa). Đôi khi bộ kinh này được xem như một bộ kinh lớn gồm 49 chương (dài bằng bộ A-hàm). Mặt khác, những chương trong kinh này độc lập nhau và mỗi chương là một bản kinh hoàn hảo, hơn nữa mỗi chương đều có tên là Đại bảo tích. Nói chung hiện nay toàn bộ kinh tập này dường như chỉ còn trong Ba tạng giáo lý Đại thừa bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Tây Tạng, được đặt cùng với những kinh điển ra đời khá muộn sau này và những kinh điển có nhiều niên đại khác nhau (trong đó một số đã được dịch sang tiếng Trung Quốc sớm hơn). Đáng tiếc là chỉ bốn trong số 49 chương hiện còn dùng ngôn ngữ gốc bằng tiếng Phạn, cho thấy bộ kinh quan trọng đối với lịch sử Phật giáo và sự hiểu biết về Đại thừa này ít được chú ý. Một số chương trong kinh này được dịch sang tiếng Trung Quốc khá sớm ở cuối thế kỷ II TL.
Đại bảo tích kinh (Ratnakūṭa) ở nghĩa hẹp là một trong những bản kinh được chuyển ngữ sang tiếng Trung Quốc vào thời kỳ sớm và vẫn còn một số ở dạng nguyên bản tiếng Phạn (chỉ ở dạng chép tay, mục nát và có một số trang khuyết, được tìm thấy ở Khotan vào những năm 1890, do Lãnh sự Nga mua được ở Kashgar; bản chép tay này hơn một nghìn năm tuổi và như thế đã trải qua một nghìn năm cất giữ trong hang động hoặc hầm mộ).9 Nội dung của bản kinh này hầu như nói về Bồ Tát và sự thực hành công hạnh tu tập, bao gồm những lập luận quan trọng về pháp tính (tính chất của các pháp), điều này cần được thảo luận riêng. Có một điểm rất tinh túy cần chú ý là kinh này dùng tên gọi Bồ Tát tạng (Bodhisattvapiṭaka)10 để nói về giáo lý căn bản của sáu ‘Ba-la-mật’ (pāramitā). Đa văn bộ (Bahuśrutīya) và một số trường phái khác cũng dùng thuật ngữ ‘tạng’ (piṭaka) với ý nghĩa như vậy có thể bao gồm trong kinh Bổn sinh. Những tác giả Đại thừa sau này như Vô Trước (Bodhisattvabhūmi...) đã dùng tên gọi như vậy (tạng) đối với toàn bộ kinh điển Đại thừa. Xem ra những kinh văn xưa nhất trong kinh tập Đại bảo tích với hình thức nguyên sơ của chúng thì một phần của kinh Bồ Tát tạng (Bodhisattvapiṭaka) vốn thuộc về trường phái có từ sớm phát xuất từ Đại thừa, có lẽ là Đông sơn trú bộ (Pūrva Śaila) (xem ở trên). Những nhà Đại thừa thời đầu đã thay đổi cách diễn đạt mười Ba-la-mật trong Phật bổn hạnh tạng (Cariyā piṭaka) của Thượng tọa bộ thành sáu Ba-la-mật của tư tưởng Bồ Tát, như một tư tưởng chỉ đạo.
9. Kāśyapapariavata (Phổ minh Bồ Tát hội) = Ratnakūṭa Sūtra (Đại bảo tích kinh), do Staël-Holstein biên tập, Shanghai, 1926, tr. vii, xvii trở xuống.
10. Ratnakūṭa (Đại bảo tích kinh) (chú thích trước), tr. 13.
Theo cách nói của những người theo Thượng tọa bộ11 thì bản thân kinh Đại bảo tích do những trường phái ở Āndhra biên soạn, khó xác định là một bản kinh trọn vẹn hay là một bộ sưu tập (và kinh Rāṣṭrapālaparipṛcchā trong Đại bảo tích của Đông sơn trú bộ có thể là kinh Raṭṭhapālagajjita tiếng Pali của trường phái này). Ở đây, chúng ta có thể truy nguyên dấu tích trào lưu này diễn biến dần dần từ Chế đa sơn bộ đến Đại thừa. Sáu Ba-la-mật là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Trong suốt đời sống của mình, một vị Bồ Tát phải hoàn thành tất cả phẩm hạnh cho chính mình, chủ yếu là thực hành hạnh hy sinh quên mình khó làm như nhiều câu chuyện kể trong kinh Bổn sinh. Luận văn của Giáo sư N. Schuster năm 1976 - một học sinh của người viết sách này, nghiên cứu về kinh Đại bảo tích, thảo luận chi tiết quá trình diễn biến của Thánh hùng trưởng giả thỉnh vấn kinh (Ugraparipṛcchā), bắt nguồn từ một bộ kinh cổ điển, miêu tả về một vị cư sĩ tại gia nổi tiếng là Ugra (A IV 208 trở xuống = T. 26 No. 38), một bậc anh hùng hiện tại là Bồ Tát.
11. Adikāram EHBC, tr. 100 (Nikāyasaṃgraha).
Trong kinh Đại bảo tích, chúng ta gặp thuật ngữ ‘tâm giác ngộ’ hay ‘tâm Bồ-đề’ (bodhicitta) thường được sử dụng trong nghĩa của Đại thừa. ‘Giác ngộ’ ở đây không mang nghĩa đơn thuần là liễu ngộ thật tính của Bốn sự thật cao quý, đạt đến ‘Ba minh’, như chúng ta đã thấy điều này tạo thành sự giác ngộ nguyên thủy của đức Phật, cũng là của những vị A-la-hán đã lĩnh hội và chứng nghiệm giáo lý của Ngài. Bây giờ ‘giác ngộ’ không chỉ với nghĩa nguyên thủy là sự chứng ngộ của đức Phật, mà còn ở nghĩa siêu nghiệm, toàn tri diệu giác, như vậy sự chứng ngộ của những vị đệ tử của Ngài đã trở thành những bậc A-la-hán trước đây không còn nguyên nghĩa đặc thù như cũ, để đủ cơ sở đạt đến giải thoát và Niết bàn. ‘Tâm giác ngộ’ được hiểu theo kinh điển Đại thừa với hạn định là tâm mong cầu thành Phật, cho dù thế nào, cuối cùng đó là tâm thù thắng của Bồ Tát: Khi một người phát ‘tâm Bồ-đề’, có nghĩa rằng người đó đã bước lên hành trình dài của một vị Bồ Tát hướng đến quả vị Phật. Kinh Đại bảo tích12 có nói rằng sự phát khởi tâm này, thậm chí ngay ý niệm đầu tiên cũng làm cho vị Bồ Tát vượt lên (‘chinh phục’) hết thảy ‘bậc hữu học’ (có lẽ A- la-hán) và Độc giác Phật (Pratyekabuddhas).
12. tr. 180.
Với quan niệm như vậy, kinh này tuyên bố13 những vị Thanh văn còn học chưa phải là những ‘người con’ chân chính của đức Phật, tức chưa chính danh là Phật tử. Do đó mở ra một sự thách thức hoặc phân chia diễn ra trong những trường phái ra đời sớm hơn: Đại thừa tách khỏi Đại chúng bộ và bắt đầu mở ra một trang sử độc lập. Trên thực tế, mỗi bản kinh Đại thừa đều nhấn mạnh con đường ‘bé nhỏ’ (hīna) của Thanh văn với lối biếm chỉ ít nhiều, vắn dài, để so sánh tính từ bi và trí huệ trong những kinh điển ở thời kỳ trước.
13. tr. 170.
Tuy nhiên, danh mục các pháp làm lợi ích hoặc tổn hại sự phát triển tâm Bồ-đề nói chung giống với quan niệm cũ hơn về sự tiến bộ của giới luật đạo đức, luôn liên hệ chặt chẽ với những ‘căn nguyên’ của thiện hạnh (kuśalamūla) thuộc hệ thống Luận tạng của Thượng tọa bộ. Hơn nữa, chúng ta nhận thấy có một đoạn văn14 nâng cao sự mô tả về lý luận bốn ‘điên đảo’ và phương pháp đối trị của chúng cùng với một vài bổ túc, chỗ đáng chú ý là sự dẫn đến ‘tất cả những hư vọng phân biệt, vọng kế, vọng chấp (thực tế là ba thuật ngữ đồng nghĩa)’, thuốc đối trị cho chúng là ‘vô tướng’ (hoặc ‘vô tính’), và loại trừ ‘ba loại hữu’, thuốc đối trị là ‘vô niệm’. Tiếp theo là đưa điểm này liên kết với bốn ‘niệm trú’ và những chủ đề trong các giáo lý được đúc kết ở Vaiśali trước đây làm thuốc đối trị cho những quan niệm điên đảo (đó là thuyết về linh hồn, ngã…). Cuối cùng chúng ta có ‘thuốc trí huệ’ siêu việt của đức Phật, trí huệ hiểu biết về nhân duyên, về vô ngã...
14. tr. 203.
Ở cuối kinh này, chúng ta chú ý đến tình huống của 800 vị tỷ-kheo (không phải là các vị Bồ Tát) sau khi nghe giảng xong thì tâm của họ liền được giải thoát. Có 500 vị tu thiền ban đầu muốn bỏ đi bởi vì họ cảm thấy quá sâu sắc nên không thể hiểu được (tức liên quan đến thảo luận về đặc tính của tâm ở trước, chúng ta sẽ bàn ở dưới). Cuối cùng họ được giải thoát khi hiểu rằng tất cả các pháp đều ‘trống rỗng’. Thông thường khi nói rằng tâm của họ được giải thoát, nghĩa là họ đã đạt đến trạng thái của những A-la-hán. Đây là điều khác biệt của kinh này và chúng ta vẫn còn kết luận của một bản kinh xưa hơn không nói đến con đường của Bồ Tát (mà về sau được thêm vào) hoặc chúng ta phải hiểu rằng sự giải thoát này chỉ cho phép họ bước lên con đường của Bồ Tát và vẫn chưa đạt đến sự tịch diệt Niết bàn.
Một trong những kinh khác của kinh tập Đại bảo tích còn nguyên bản tiếng Phạn, đó là Hộ quốc thiên vương sở vấn kinh (Rāṣṭrapālaparipṛcchā), nói tường tận hơn (mặc dù vẫn chưa hệ thống) về con đường của Bồ Tát, được minh họa bằng 55 câu chuyện trong kinh Bổn sinh. Không có bằng chứng ngoại tại về sự cổ xưa của kinh này nhưng nội dung của nó cho thấy ra đời sớm hơn so với kinh tập Đại bảo tích, phù hợp với tình huống phân liệt công khai với tư tưởng Thanh văn (trong kinh không nói về sự khiển trách hàng Thanh văn), thực tế đây là một bản kinh của Đông sơn trú bộ chưa bị cải đổi sau sự phân liệt này. Những nguyên tắc đạo đức không khác nhiều so với Ba tạng giáo lý nguyên thủy, ngoại trừ giới thiệu về con đường của Bồ Tát, còn liên quan đến con đường này nhấn mạnh hơn nữa về sự dấn thân (để hoàn thành viên mãn hạnh nguyện Ba-la-mật).
Một bản kinh rất đặc thù khác vẫn còn nguyên bản tiếng Phạn là Phật thuyết A-di-đà kinh (Amitābhavyūha) (hoặc phiên bản dài hơn là Vô lượng thọ kinh (Sukkhāvatīvyūha, hoặc Amitābhaparivarta). Đây cũng là một trong những kinh được dịch sang tiếng Trung Quốc từ rất sớm, cùng với bản kinh tập Đại bảo tích. Trong kinh này đức Phật nhắc lại cho tôn giả Ānanda một số lớn đức Phật trong quá khứ liên tục xuất hiện trong những thế giới của vũ trụ này. Tiếp tục với câu chuyện, khi đức Phật đến thăm đức Thế tự tại vương Như lai (Lokeśvararāja), đức Phật nói cho tôn giả Ānanda biết vị Phật này có một đệ tử tỷ-kheo tên là Dharmākara (Pháp Tạng). Vị tỷ-kheo này (là một Bồ Tát) muốn lập ra chuỗi hạnh nguyện cao xa và sẽ trở thành Phật, rồi xin đức Phật Lokeśvararāja chứng minh (một cách thọ ký, như cách Phật Nhiên Đăng (Dīpaṃkara) đã ‘thọ ký’ quả vị Phật cho đức Phật Thích Ca). Điều căn bản của câu chuyện này là lý tưởng về quốc độ của Phật (Buddhakṣetra), nghĩa là một thế giới đặc thù (theo Phật giáo có hàng nghìn hay hàng triệu thế giới trong vũ trụ này), mà một vị Bồ Tát tùy theo hạnh nguyện đến đó để tu hành trở thành Phật. Tỷ-kheo Dharrmākara rõ ràng là người xây dựng thế giới Cực lạc dựa trên chí nguyện thành Phật và lòng từ bi, được thọ ký bổ xứ thành Phật ở thế giới lý tưởng như đã phát nguyện. Trước hết, vị tỷ-kheo này đã cung thỉnh đức Phật Lokeśvararāja nói về tính chất của những cảnh giới của các đức Phật khác, rồi chọn những đặc tính tốt đẹp nhất trong tất cả và phát 46 lời nguyện (trong những phiên bản bằng tiếng Trung Quốc có 48), nếu trở thành Phật thì thế giới đó có đầy đủ những điều kiện trên. Khi được đức Phật Lokeśvararāja chứng minh cho những lời phát nguyện này, tỷ-kheo Dharmākara chính thức ‘lập nguyện’ (praṇidhāna) trở thành Phật ở thế giới đó khoảng sau một tỷ năm.
Nói chung thế giới này là một thế giới lý tưởng và tất cả chúng sinh được vãng sinh về đó đều hạnh phúc thù thắng, trí huệ và diệu giác. Ở đó không có địa ngục và không có chúng sinh nào thác sinh làm thân động vật hay ngạ quỷ. Tất cả chúng sinh ở đó tu tập đều được huệ giải vô ngại (pratisaṃvid). Thế giới này đầy ánh sáng, châu báu, các loại hương, các loại hoa thơm bằng ngọc, mây nhạc... Chúng sinh ở đó và đặc biệt những Bồ Tát được sinh lên đó có thể hưởng thụ hạnh phúc tối thượng và muốn gì được nấy, ngoài một số nhu cầu thông thường còn có một số điều kiện đặc thù như vĩnh viễn không phải giặt áo quần, tất cả áo quần đều tự động sạch sẽ. Bất kỳ ai mong muốn nghe Phật pháp thì sẽ được như ý ngay. Không có ai có ý sở hữu cái gì, thậm chí cả thân thể cũng vậy.
Tôn giả Ānanda hỏi đức Phật đó về sau thế nào, đức Phật bảo rằng tỷ-kheo Dharmākara đã thực hiện lời phát nguyện vĩ đại của mình và trong giây lát liền trở thành đức Phật A-di-đà (‘Vô Lượng Quang’) ở thế giới đó, được gọi là thế giới Cực lạc (Sukkāvatī) có đủ các điều kiện như vị tỷ-kheo đó phát nguyện. Thế giới đó ở phương Tây, cách thế giới của chúng ta hàng tỷ thế giới. Phật A-di-đà cũng có tuổi thọ vô lượng (Ngài sẽ duy trì thế giới vi diệu đó mãi mãi) và vì thế có một tên gọi khác là Vô Lượng Thọ (Amitāyus). Sau đó đức Phật giảng chi tiết hơn về thế giới Cực lạc (Sukkāvatī), chẳng hạn như hồ sen bảy báu và đất bằng thẳng không có núi đồi, những con sông tỏa mùi thơm mọc lên những bông hoa bằng ngọc và phát ra âm thanh vi diệu, nhạc trời hòa tấu êm đềm và dễ chịu gợi nhắc ‘vô thường, thanh tịnh và vô ngã’. Chúng sinh ở đó trải qua đời sống vui sướng và hưởng thụ những gì họ muốn. Nếu họ tắm trên những dòng sông thì nước ở đó tự điều hòa nhiệt độ cho từng người; nếu có người không thích nghe nhạc thì họ sẽ không nghe thấy, còn những người khác muốn nghe thì liền được nghe và nghe những loại nhạc mà họ thích, dĩ nhiên nếu muốn nghe những loại âm nhạc tán tụng về các giáo lý bao gồm không, vô tướng, vô niệm, vô vi, không sinh, không khởi, không giữ, tịch diệt... Không có sự khác biệt giữa thần linh và con người ở đó.
Hiện tại bất kỳ người nào chỉ cần chú tâm vào đức Phật A-di- đà, tích lũy vô lượng ‘gốc lành’ (kuśalamūla) và phát triển tâm Bồ-đề của mình, nguyện vãng sinh vào thế giới đó, lúc chết được sinh về ở đó. Thậm chí có người không thường xuyên niệm Phật A-di-đà, tu tập gốc lành chưa đủ, nhưng nếu lúc lâm chung tưởng nhớ đến Phật A-di-đà đang hiện diện trước mặt họ, cũng được sinh về đó. Cho dù chỉ một tâm niệm về đức Phật A-di-đà, mong muốn về thế giới của Ngài, cũng có thể được: Nhờ vào tâm niệm này mà có thể vãng sinh lên thế giới của Ngài và trở thành một vị Bồ Tát. Hơn nữa, những vị Bồ Tát được sinh vào thế giới này, chỉ cần tu tập thêm một kiếp là có thể chứng thành Phật quả, nếu họ muốn. Trong những vị Bồ Tát ở thế giới này có Bồ Tát danh hiệu là Quán thế âm (Avalokiteś-vara, sau này trở thành một vị Bồ Tát rất gần gũi với thế giới chúng ta trong Phật giáo Đại thừa phổ cập). Thực tế tỷ-kheo Dharmākara yêu cầu bất cứ ai được thác sinh vào thế giới của ngài đều được ‘nhất thiết chủng trí’, có đủ huệ giải, có thể thuyết pháp luận đạo: Hầu hết là Bồ Tát và thật sự đã thành Phật.
Ở đây chúng ta cần nói mấy điểm về chúng sinh ở thế giới của đức Phật A-di-đà, những miêu tả về sự vui sướng ở thế giới Cực lạc rất phù hợp với giáo lý Phật giáo thời kỳ đầu. Họ không có ý nghĩ về sự chiếm hữu (đây là một trong những điều kiện). Họ không có ý nghĩ về vui hay không vui. Họ không có ý nghĩ về ‘tất cả sự tồn tại’. Họ không có ý nghĩ về của ai khác hoặc của ‘chính họ’ hoặc vừa của ‘người khác’ vừa của ‘chính họ’. Ở đó không có cãi vã, tranh đấu hoặc đối chọi. Tâm của họ đều bình đẳng, yêu thương, ôn hòa, thân mến, không chướng ngại... và phù hợp với con đường dẫn đến trí huệ Ba-la-mật.
Tôn giả Ānanda trong lòng muốn thấy thế giới đó, lập tức đức Phật A-di-đà phóng một luồng hào quang từ lòng bàn tay của Ngài, ánh sáng đó chiếu khắp vũ trụ, làm cho tôn giả Ānanda thấy được Ngài và thế giới đó. Đức Phật (Thích Ca Mâu Ni) chỉ cho tôn giả Ānanda biết những Bồ Tát diệu kỳ ở đó, và chúng sinh vãng sinh đến đó đang ngồi trên những bông sen. Đức Phật còn miêu tả ở cuối bộ kinh đó rằng cách nói pháp như thế thì những người thiếu phúc báo khó có thể nghe hiểu được, ngoại trừ những bậc ‘chí lớn’ mới có thể thành tựu lợi lạc của trời và người (tham khảo OBM 31-2).