Sự hình thành kinh điển mới không hề suy giảm sau trào lưu Duy tâm luận được thảo luận ở Chương 11. Cùng với thời gian của thời trung đại tiệm tiến, Phật giáo đã tiếp tục phát triển thuận theo sự tiến hóa của xã hội. Sự chuyển hóa dần và phức tạp trong xã hội Ấn Độ phản ánh trên phương diện tư tưởng phổ cập cũng như trong triết học, ở đây không thể tìm về ngọn nguồn được. Cần ưu tiên tiếp cận xử lý nguồn tư liệu thật tốt trước khi nghiên cứu mới có kết quả như ý. Ở đây chúng ta cần chú ý rằng những gì tương tự khuynh hướng này về thế giới quan có thể được tìm thấy trong văn học Bà-la-môn giáo và tín ngưỡng Śaiva ở giai đoạn này, tạm thời có thể nói rằng những động thái mà chúng ta tìm hiểu trong văn học Phật giáo là một bộ phận trong lịch sử xã hội thời trung đại của Ấn Độ. Chúng ta đang quan sát một trong những nguồn tư liệu lịch sử nhưng vẫn chưa được chuẩn bị đủ tốt để ‘giải thích’ những gì chúng ta tìm thấy ở đây bằng nhận thức từ các nguồn tư liệu khác.
Có lẽ ở thế kỷ IV, hầu hết bộ phận này được đặt vào cương vị những kinh điển chủ đạo của một thể loại sau đó được tập thành tác phẩm dưới tiêu đề Đại tập bộ (Mahāsannipāta). Kinh đầu trong tổng tập này là Bảo tràng đà-la-ni kinh (Ratnaketudhārani) (được dịch sang tiếng Trung Quốc vào đầu thế kỷ V), đánh dấu đậm nét khuynh hướng mới trong kinh điển của giai đoạn này và có lẽ thêm thắt vào kinh điển cổ. Đó là hình thức vận dụng những câu thần chú (dhāraṇī), trì tụng, thường có tính thần mật, ‘bảo vệ’ hoặc ‘gìn giữ’ Phật pháp và ‘hộ trì’ người trì tụng. Chúng ta đã gặp ý tưởng sử dụng thần chú trong Bảo tràng đà-la-ni kinh. Trong Bảo tràng đà-la-ni kinh, đức Phật Thích Ca nhờ vào sự hộ trì của các đức Phật ở vô số thế giới để hoằng dương giáo pháp mà chỉ dùng đến một ‘câu thần chú’ (mantrapada), tức đọc dhāraṇī (đà-la-ni) sẽ bảo vệ giáo pháp và ủng hộ người trì tụng bằng mọi phương diện. Các đức Phật vân tập (đây là ‘Hội lớn’, Mahāsannipāta, do đó mà kinh tập này có danh hiệu như vậy) và tuyên thuyết thần chú (dhāraṇī). Thần chú này dài hai trang16 và phần lớn không thể hiểu hết được, do các âm tiết lặp đi lặp lại tạo thành (guru guru, muru muru, hili hili, hala hala...), thường lặp lại âm đầu, ở giữa là những câu có nghĩa (như ‘thần chú Đại bi’...) mặc dù đây là những câu có nghĩa không phụ thuộc vào ngữ pháp. Chúng ta không cần đi sâu vào những câu thần chú này hoặc làm khó mình bằng cố gắng đưa ra giải thích nguồn gốc những câu thần chú với ngôn ngữ và chữ viết không phải của Ấn Độ. Bảo tràng đà-la-ni kinh (Ratnaketudhārani) thật sự là một bộ kinh khá dài, ngôn ngữ trong sáng. Kinh văn bắt đầu bằng câu chuyện nói về tôn giả Xá-lợi-phất đã quy y đức Phật như thế nào và tuyên thuyết thần chú, tiếp theo là những tình huống nói về sự phi lý của thần Chết (Māra) một cách kịch tính. Có lẽ đây là cảm hứng xuất phát từ thể loại kịch của Aśvaghoṣa đặt vào vai của tôn giả Xá-lợi-phất, nhưng đối với hiểu biết vụn vặt của chúng ta về những tình huống sau không đủ để có thể so sánh chi tiết.
16. Mahāsannipāta-Ratnaketudhāraṇīsūtra (Đại tập bộ-Bảo tràng đà-la- ni kinh) do N. Dutt và S. N. Sharma biên tập ở trong Gilgit Manuscript Vol. IV, Calcutta 1959, tr. 114-6.
Một lượng lớn kinh điển ở giai đoạn này và về sau rất phù hợp với hình thức thần chú. Chúng ta nên chú ý đến hình tượng đức Phật Dược Sư17 (Bhaiṣajyaguru), một vị Phật trị bệnh, có thể sánh với một số mặt điển hình của đức Phật A-di-đà (Amitābha), thần chú (mantra hay japa) của ngài Ekādaśamukha (Quán âm thập nhất diện)18 và ngài Hayagrīvavudyā (Mã đầu Quán âm) để chế ngự ma quân. Ngài Hayagrīva có liên quan đến ngài Avalokiteśvara (Quán tự tại, Quán thế âm), theo Nhất thiết Như Lai tâm bí mật tịnh nghiêm kinh (Sarvatathāgatādhiṣṭhānavyūha)19 thì vị Bồ Tát này có đạo tràng ở núi Potalaka ở Āndhra.
17. Bhasiṣajyaguru Sūtra (Dược sư lưu ly quang vương Phật kinh) và những bản kinh khác được xuất bản trong Gilgit Manuscripts Vol I, Śrīnagar, 1939.
18. Như trên.
19. Như trên.
Vào thế kỷ VII, luận sư Pháp Xứng đã phê phán việc trì tụng các loại thần chú (mantras). Đến thế kỷ VIII, một trường phái mới được các vị thầy Ấn Độ truyền bá vào Trung Quốc. Śubhākarasiṃha (Thiện Vô Úy, sinh ở Kaliṅga, học ở Nālandā) là người tiên phong và đã dịch Đại tỳ-lô-giá-na kinh (Mahāvairocana), nghĩa là ‘Đại quang minh’ (một đặc tính của Phật, tham khảo tr. 600 trở xuống, ở trên, đôi khi được hiểu là ‘Mặt Trời lớn’, ‘Đại Nhật’).20 Tiếp theo vị thầy này là Vajrabodhi (Kim Cương Trí, đã học Mật tông ở Nam Ấn Độ, sang Trung Quốc hoằng pháp theo lời phó chúc của Bồ Tát Avalokiteśvara ở núi Potalaka), vị thầy này đã phiên dịch Kim cương đảnh kinh (Vajraśikhara). Sau đó một đệ tử của vị thầy này là Amoghavajra (Bất Không) đã dịch bộ kinh với tên gọi Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp trì kinh (Sarvatathāgatatattvasaṃgraha). Những kinh điển này được xem như chứa đựng lời dạy của đức Phật hay Pháp thân, ‘sự chân thật của giáo lý’ (chân ngôn). Trong kinh Đại tỳ-lô-giá-na (Mahāvairocana), đức Phật ở đây là Phật Mahāvairocana (Đại Nhật Phật, Tỳ-lô-giá-na Phật), đi theo có Bồ Tát Samatabhadra (Phổ Hiền) (tham khảo Hoa nghiêm kinh, dường như là nguồn khởi phát cho bản kinh này) và những vị Bồ Tát khác, cùng với vị thần tay cầm vajradhara (chùy ‘Kim cương’, về vị này mời xem ở dưới), Vaijapāṇi và những vị Kim cương thủ khác. Toàn bộ vũ trụ trở nên sáng rực như Mặt Trời chiếu rọi. Tất cả chúng sinh phải tìm thấy sự giác ngộ ở trong chính tâm của mình, chúng hoàn toàn thanh tịnh (lập luận trong giáo thuyết của Kim cương thừa về điểm này có lẽ không xa với Hoa nghiêm kinh và khuynh hướng Duy tâm luận). Người hành trì theo kinh này quán tưởng mình hoàn toàn ‘trở thành’ Phật Vairocana. Vị ấy tu tập ‘mạn-đà-la’ (maṇḍala) để nhận rõ tâm của mình, đồng thời cũng là tâm của Phật: Phải tìm thấy đức Phật (sự giác ngộ) trong chính tâm của mình, trong ‘tâm Bồ-đề’ của mình (bodhicitta). Phương pháp cảm ứng này bao gồm việc tụng đọc thần chú (mantra), thực hành nghi thức quán mạn-đà-la (maṇḍala: bao gồm toàn bộ sự thiết trí đàn tràng cử hành nghi thức, khá giống với nghi thức cầu nguyện của Vệ Đà ở ngoài trời, thậm chí có đốt đồ hiến tế (homa), ‘đồ cúng’, mặc dù mục đích vẫn thuần túy Phật giáo: Đốt đồ hiến cúng tượng trưng cho đốt cháy những dục vọng và si mê bằng ngọn lửa trí huệ), tay bắt mật ấn (mudrā) và yoga (‘sự thống nhất’, ‘sự hợp nhất’, nhờ vào nghi lễ và thiền định mà đạt được cảm ứng ‘hợp nhất’). Nghi thức đầu tiên được cử hành là lễ ‘quán đảnh’ (abhiṣeka) cho đệ tử. Tiếp theo là tiến hành tuyển chọn cẩn thận đệ tử với các đức tính như thanh tịnh, biết kiềm chế, thành tâm, tận tâm với vị thầy của mình..., và sẵn sàng hy sinh đời mình cho sự nghiệp tu học chính pháp. Sau đó mới tiến hành nghi thức chính, với sự hiến cúng hoa... Tuy nhiên, nghi lễ được xem là bài thực hành sơ đẳng hay đầu tiên, đó là trình bày một mạn-đà-la cho mọi người có thể thấy được (và thu hút họ vào xem). Nghi thức thật sự hay cao nhất chỉ diễn ra ở trong tâm của đệ tử, vị ấy sau khi thực hành nghi thức căn bản thì phải quán tưởng mạn-đà-la trong chính cơ thể mình và cuối cùng là chỉ trong tâm mình.21
20. Vị sư này còn dịch bộ Susiddhikara (Diệu thành tựu Bồ Tát kinh) và ‘Kriyā’ Tantra (Lực dụng bí mật kinh).
21. Liên quan đến nội dung của kinh này, xem Tajima: Étude sur le Mahā- vairocana-sūtra, Paris, 1936. Liên quan đến nghi lễ bí mật của phái Śaiva, xem IKL Vol. IV. tr. 1665.
Ba bộ kinh, hoặc có thể nói là hai bộ kinh điển quan trọng trong kinh tập được xem như mật pháp (tantras), ‘mật giáo’ mà người tu tập Mật tông phải dựa vào, và dường như thuộc về một bộ phận kinh điển độc lập cùng với những kinh điển trong Ba tạng giáo lý Tây Tạng. ‘Trường phái’ (thừa) mới tự xưng là nguyên thủy và chân thật (đúng với lời dạy của đức Phật) như những trường phái khác, nhưng rõ ràng dần dần lớn mạnh trong môi trường của những kinh điển mới như chúng ta vừa thảo luận và những kinh điển tương tự khác. Nghi lễ ngày càng tăng, sau đó những loại hình thiền định đặc thù được vận dụng để đạt đến sự chấm dứt dục vọng, tuy nhiên sự trì tụng thần chú chiếm phần lớn trong ‘hệ thống giáo lý’ này. Những người theo Kim cương thừa trái hẳn với Kinh ngôn thừa (Sūtrāyāna), ‘trường phái của Kinh điển’, hoặc Ba-la-mật (Pāramitā), được xem như một nhánh chính của Đại thừa. Một tên gọi khác của trường phái này là Kim cương thừa (Vajrayāna); ‘Kim cương’ tượng trưng cho sự bất biến, bất hoại, bất nhị tính của thực tại tuyệt đối, sự định hình với những đặc tính này là mục đích của hành giả theo mỗi hệ thống tông môn. Có lẽ một trong kinh điển Mật giáo sớm nhất là Nhất thiết Như Lai tam nghiệp tối thượng bí mật đại giáo vương kinh (Guhyasamāja) hay Bí mật tập hội (Secret Asembly). Theo giải thích truyền thống về kinh này thì phương pháp ở đây chỉ dựa vào thiền định, trong thiền định tự thân thấy được Như Lai, nhờ vào sự gia bị của Như Lai mới có thể đạt đến ‘nhất tâm’ (yoga). Tuy nhiên, giải thích này được các nhà chú giải sau này định hình thành tiêu chuẩn có thể đứng đầu là việc thực hành các nghi lễ mang tính hình thức hơn.
Như vậy, nguồn gốc của Kim cương thừa dường như có thể xác định được niên đại khoảng thế kỷ VI. Truyền thống Mật tông Nhật Bản22 cho rằng giáo nghĩa của Chân ngôn tông (Mantrayāna) được y chiếu theo lời phó chúc của đức Phật, được đức Vajrasattva (Kim cương tát-đõa) gìn giữ trong một tòa bảo tháp ở Nam Ấn Độ (Āndhra?), cho đến khi con người có khả năng hiểu được giáo lý này thì kinh điển mới xuất hiện. Sau đó Long Thọ đã mở tòa bảo tháp, được đức Vajrasattva quán đảnh và truyền bá giáo lý này. Sử gia Tāranātha cho rằng kinh điển Mật giáo bắt đầu xuất hiện trên thế gian loài người cùng thời với những kinh điển Đại thừa nhưng chỉ là kinh điển bí mật của pháp môn Kriyā (Lực dụng) và Caryā (Hành vi) (xem dưới) được truyền thừa một cách cực kỳ bí mật và do đó ngoài những người tu hành tin tưởng thực hành thật sự ra thì không ai có thể biết được. Hơn nữa, vị sử gia này còn nói rằng hệ thống kinh điển phái Anuttarayoga (Vô thượng Du Già) (xem dưới) đã được các bậc thầy tự tìm lại được và mang về dần dần. Vị sử gia này đã đưa ra danh tính những vị thầy đó (Saraha, Kambala, Padmavajra hay Saroruha, Kukkuri, Kṛṣṇācārya, Lalitavajra, Lūyipāda, Gambhīravajra và Piṭo), tất cả đều sống khoảng năm 800 đến 1040 TTL, điều này dường như cũng cho chúng ta thấy niên đại xuất hiện của một chuỗi kinh điển Mật giáo. Nhưng có một tình huống, vị sử gia này nói ở chỗ khác rằng, những kinh điển này hoặc ít nhất nội dung chủ đạo của kinh điển này (những phiên bản có sớm hơn?), có bản kinh mà một vị thầy đã hành trì sớm hơn tất cả kinh điển này, đó là pháp sư Ḍombiheruka, cùng với hai kinh rất ngắn khác được thầy của mình là pháp sư Virūpa hành trì, thì đó là kinh điển Mật giáo càng quan trọng hơn. Pháp sư Ḍombiheruka là người cùng thời với Vilasyavajrā, sư tổ của Kambala (hay Kampala).23 Niên đại của vị pháp sư này vào nửa cuối thế kỷ VIII ở Uḍḍiyāna (thung lũng Suvastu, một trung tâm lâu đời của Pháp tạng bộ) và là người cùng thời với pháp sư nổi tiếng Padmasambhava (vị pháp sư này được một số học giả xác nhận là Padmavajra Saoruha), đã phát nguyện truyền bá Phật giáo ở Tây Tạng cùng với Śāntarakṣita (theo mô tả của truyền thống sau này thì họ hợp tác cùng nhau, nhưng xác nhận như vậy thì Śāntarakṣita là người đã theo truyền thống Mật giáo, tuy nhiên trong những tác phẩm hiện còn của mình thì không để lại dấu ấn gì cả).
22. Tajima, sđd., tr. 21, 31 trở xuống.
23. Snellgrove, The Hevajra Tantra, Vol. I, tr. 13; tham khảo IKL Vol. IV. tr. 2510.
Cho dù thừa nhận Nhất thiết Như Lai Kim cương tam nghiệp tối thượng bí mật đại giáo vương kinh (Guhyasamāja), Đại-tỳ-lô-giá-na kinh (Mahāvairocana), Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp trì kinh (Sarvatathāgatatattvasaṃgraha) và Kim cương đảnh kinh (Vajraśikhara) ra đời sớm ở thế kỷ VIII, chúng ta cũng có thể thêm ba bộ kinh chính của Mật tông là Như ý luân tổng trì kinh (Cakrasaṃvara), Kim cương bố úy kinh (Vajrabhairava) và Văn-thù-sư-lợi căn bản nghĩa quỹ kinh (Mañjuśrīmūlakalpa) cũng có thể đoán vào khoảng thế kỷ VIII. Như những kinh điển Mật giáo có liên quan đến các vị pháp sư đã đề cập ở trên, chúng ta có các bản kinh như sau: Ái dụ dạ-ma-lợi kinh (Raktayamāri, Virūpa đã hành trì khoảng năm 750), Đại bi không trí Kim cương vương kinh (Hevajra), liên quan đến Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp trì kinh (Sarvatathāgatatattvasaṃgrah), nửa cuối thế kỷ VIII, ‘trích yếu’ của kinh này cùng với hai bản kinh ngắn Kurukullīkalpa và Ārāli được pháp sư Ḍombiheruka hành trì và bản đầy đủ được pháp sư Kambala và Saroruha hành trì), Phật bát kinh (Bhuddhakapāla, khoảng năm 800, được pháp sư Saraha hành trì, là một đệ tử của Haribhadra, nhưng dường như có đến hai vị Saraha: Chúng ta nhớ lại rằng một học trò kiệt xuất khác của Haribhadra là Buddhajñāna, được cho là đã viết những trước tác về Kim cương thừa, do đó khuynh hướng dung hợp giữa tư tưởng của trường phái Ba-la-mật và Mật tông như vậy bắt đầu vào giai đoạn này), kinh Mahāmāyā (khoảng năm 800, được pháp sư Kukkuri hành trì, người cùng thời với Kambala và Saroruha), kinh Kṛṣṇayamāri (được pháp sư Lalitavajra ở Uḍḍiyāna hành trì, dường như sống cùng thời với những vị pháp sư này), Hợp thập kinh (Samputa hay Caturyoginīsampuṭa) và Đảnh nghiêm kinh (Tilaka), hay Đại mật ấn đảnh nghiêm kinh (Mahāmudrātilaka), đầu thế kỷ IX, cả hai kinh này do pháp sư Kṛṣṇacārya hay Kṛṣṇapaṇḍita mang về, danh hiệu đầu có nhiều tác giả cùng tên), Du Già nữ tu hành vô ngại kinh (Yoginīsaṃcaryā) được pháp sư Lūyipāda hành trì, hiển nhiên ở thế kỷ XI), Kim cương tổn diệt kinh (Vajrāmṛta) được pháp sư Gambhīravajra hành trì (đầu thế kỷ XI) và Thời luân kinh (Kālacakra), do pháp sư Piṭo mang về khoảng năm 1040, một học trò của pháp sư Atīśa.
Nếu chúng ta so sánh chuỗi kinh điển Mật tông này với bộ kinh tập được bảo tồn trong Ba tạng giáo lý Tây Tạng được Buston biên tập, chúng ta nhận thấy rằng có một hình thức kinh điển chính hiển nhiên là tuyển chọn mang tính tiêu biểu. Toàn bộ sưu tập này dường như gần đây chưa được các học giả ngoài Tây Tạng đem ra nghiên cứu đầy đủ và niên đại của những bản kinh khác vẫn hoàn toàn chưa được xác định, vì vậy ở đây chúng ta có lẽ nên cố gắng khảo sát ngắn gọn nhất về kinh điển này như tên gọi ở trên. Hầu hết kinh điển này hiện còn trong nguyên bản tiếng Phạn, nhưng một số được xuất bản rất chậm. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là lúc nào kinh điển Đại thừa được viết bằng tiếng Phạn thì kinh điển Mật tông cũng vậy, theo Thời luân kinh vô cấu quang chú sớ, được viết bằng tiếng Phạn, tiếng Prakrit hay Apabhraṃśa... Tiếng Apabhraṃśa là ngôn ngữ được nói ở Bắc Ấn Độ giai đoạn biên soạn kinh điển Mật tông. Trên thực tế, kinh Mật tông bằng tiếng Apabhraṃśa đã được xuất bản, đó là bộ Ḍākārāṇava (Calcutta, 1935, N. N. Chaudhuri biên tập). Tổng cộng có hơn 55 bộ kinh Mật tông, trong đó có một số quan trọng, nhiều kinh chỉ một vài trang, và dài hơn số trang đó là những kinh ngắn. Văn-thù-sư-lợi căn bản nghĩa quỹ kinh là kinh dài nhất, dài hơn bất kỳ kinh Đại thừa nào ngoại trừ kinh Bát Nhã. Thời luân kinh cũng khá dài (khoảng bằng một nửa), Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp trì kinh và Kim cương đảnh kinh giống nhau. Hầu hết kinh khác thì rất ngắn.
Khi xét về nguồn gốc niên đại và quốc gia, chúng ta có thể chia kinh điển Mật tông thành bốn nhóm để khảo sát. Chúng ta có thể đặt sự biên soạn của Nhất thiết Như Lai Kim cương tam nghiệp tối thượng bí mật đại giáo vương kinh, Kim cương đảnh kinh, Nhất thiết Như Lai chân thật nhiếp trì kinh và Đại-tỳ-lô- giá-na kinh vào khoảng thế kỷ VI và VII. Nơi phát nguyên của những kinh điển này có thể ở phía Nam vì có liên quan đến Long Thọ và Nāgabodhi, thế nhưng những trào lưu Đại thừa được sáng lập ở trung tâm lớn Āndhra hoặc Kaliṅga. Sau đó không lâu, có lẽ khoảng đầu thế kỷ VIII, chúng ta hiện còn kinh Cakrasaṃvara, Vajrabhairava và Mañjuśrīmūla, trong đó bộ cuối dường như được viết ở phía bắc, nhưng khởi nguyên thì sớm hơn ở phía nam (Āndhra). Chúng ta cần nắm bắt tốt hơn nhóm kinh điển tiếp theo, một chuỗi kinh bắt đầu là kinh Raktayamāri và Hevajra. Những kinh này dường như ra đời giữa năm 750 đến 850, trong đó nhiều kinh cho thấy rất rõ nguồn gốc xuất phát ở Uḍḍiyāna (những vị vua của họ tinh thông kinh điển Mật tông), chứng tỏ đây là trung tâm lớn của Kim cương thừa ở thế kỷ VIII. Những kinh điển này đã được đem ra lưu hành ngay ở các trường đại học như Nālandā để nghiên cứu và những bậc thầy kế thừa đem ra giảng dạy ở đó, nhưng không cần đưa ra giả thiết rằng chúng được viết ở vương quốc Pāla: Mặc dù pháp sư Kṛṣṇācārya đã đem về hai bản kinh nhưng không nhất thiết vị thầy này đã biên tập từ vương quốc đó. Chừng một thế kỷ hoặc hơn trước khi những kinh điển Mật tông này ra đời của ở đầu thế kỷ XI. Khoảng cách này có lẽ vì tư liệu của chúng ta không đủ, nhưng ba bản kinh Mật tông cuối trong tuyển tập của chúng ta thì Thời luân kinh (Kālacakra) là bộ kinh quan trọng nhất, biểu hiện một phương diện mới, thậm chí đôi khi được tôn xưng là ‘trường phái’ (thừa) mới, đó là Thời luân thừa (Kālacakrayāna). Xem ra nguồn gốc ra đời của kinh này là ở Āndhra, vì đức Phật đã tuyên bố kinh này được thuyết ra ở Dhānyakaṭaka.
Chúng ta đã đề cập đến một số vị thầy lãnh đạo của Kim cương thừa và xác định niên đại của họ. Còn lại một vài vị và những trước tác ở trên bây giờ cần phải lưu ý. Những bản sớ giải quan trọng về kinh điển Mật tông do pháp sư Virūpa biên soạn (về kinh Raktayamāri), Saraha (về kinh Buddhakapāla), Saroruha (về kinh Hevajra), Kukkuri (về kinh Mahāmāyā), Kṛṣṇācārya I (về kinh Hevajra), một học trò của Kṛṣṇācārya I là Kṛṣṇācārya II (về kinh Cakrasaṃvara), Pháp Xứng II (về kinh Hevajra), một vị Long Thọ khác (thế kỷ IX, giải thích về kinh Guhyasamāja), Nguyệt Xứng (thế kỷ IX, cũng về kinh Guhyasamāja), Bhavyakīrti (thế kỷ IX, về kinh Cakrasaṃvara), Vimalamitra (thế kỷ IX, về kinh Guhya-garbha), Jayabhadra (thế kỷ X, về kinh Cakrasaṃvara), Śrīdhara (thế kỷ X, về kinh Yamāri), Bhadrapāda (thế kỷ X, về kinh Hevajra, Cakrasaṃvara, Vajraḍāka và Catuḥpīṭha), Līlāvajra (thế kỷ X, về kinh Yamāri và Guhyagarbha), Ānandagarbha (về kinh Sarvatathāgatatattavasaṃgraha, Guhyasamāja, Māyājāla, Paramāli và những kinh khác), Vajragarbha (thế kỷ XI?, về kinh Hevajra), Taṅkadāsa (thế kỷ XI, về kinh Hevajra), Mañjuśrīkīrti (thế kỷ XI?, về kinh Kāla-cakra), Ratnākaraśānti, Abhayākaragupta, Śubhākaragupta (thế kỷ XII, về kinh Ekavīra) và Ratnarakṣita (cuối thế kỷ XII, về kinh Saṃvarodaya).
Ngoài những bộ chú giải trong bộ sưu tập duy nhất có lẽ quan trọng nhất này ra (có nhiều tác phẩm khác, hầu như không rõ niên đại hiện còn về kinh Cakrasaṃvara, đó là bộ chú giải về kinh Cakrasaṃvara, nhiều tác phẩm chú giải về kinh Guhyasamāja, nhiều tác phẩm chú giải về kinh Durgatipariśodhana và những bản chú giải khác về kinh Abhidhānottara, Vajraḍāka, Ḍākārṇava, Ḍākinījāla, Sarvatathāgatatattvasaṃgraha, Mahāvairocana, Dhyānottarapaṭala..., và một số chú sớ của hai nhà sớ giải lớn hiện chưa xác định được niên đại, một vị là Āryadeva sau Nguyệt Xứng và vị thứ hai là Buddhaguhya sau Ānandagarbha một chút), chúng ta còn tìm thấy một chuỗi sách giảng dạy về Kim cương thừa do một số tác giả này hay khác biên soạn. Tác phẩm Ngũ thứ đệ luận (Pañcakrama) có lẽ là một kiệt tác, cho nên có nhiều tác phẩm chú giải về bộ luận này (do Bhavyakīrti, Nāgabodhi, Rakṣitapāda), cùng với Tứ mật ấn quyết trạch luận (Caturmudrāniścaya) của Long Thọ. Một học trò của Long Thọ là Maitṛpa (hay Advayavajra) đã viết ra Tứ mật ấn luận sớ (Caturmudropadeśa). Nāḍapāda (hay Nāropa, thế kỷ XI) đã viết ra một chuỗi tác phẩm về Mật tông. Bậc thầy kiệt xuất Atīśa (982-1055) là nổi trội nhất trong hoạt động truyền bá lĩnh vực này ở Tây Tạng, đồng thời cũng viết nhiều tác phẩm trên nhiều phương diện ở Ấn Độ (đóng vai trò như một sứ giả kiến tạo hòa bình giữa vua Nayapāla và vua Karṇā của vương triều Kalacuri, và trong những tác phẩm của vị thầy này có một bức thư gửi cho vua, tựa đề Vimalaratnalekha (Lá thư quý không dơ bẩn). Anuparmarakṣita đã biên soạn tác phẩm Lục chi Du Già luận (Ṣaḍaṅgayoga) giải thích về pháp môn của Thời luân kinh (Kālacakra); và Vibhūticandra (đầu thế kỷ XIII, du hóa khắp Tây Tạng tiếp tục viết về đề tài này), đã viết tác phẩm Nội mật tinh anh (Antarmañjarī) cũng luận thuật về pháp môn này.
Một số vị thầy còn đóng góp hợp tuyển thi ca biểu hiện sự truy cầu giác ngộ thành Phật, tư tưởng cao độ, thích ứng với triết học trường phái Trung Quán và hệ thống nghi lễ của Kim cương thừa (ví dụ xem sự truy cầu này như một ván cờ). Để phổ cập tư tưởng của mình trên thế gian, họ đã dùng ngôn ngữ Apabhraṃśa để sáng tác (có lẽ ngôn ngữ của Ma-kiệt-đà cũng như viễn Tây Ấn Độ). Một số bài thơ tuyển chọn từ tuyển tập này đã được dịch trong tác phẩm IKL Vols. IV và V, chương XXXVI (§§2512-9) và XXXVIII (phần cuối). Những bài thơ này thuộc về các tác giả Saraha, Kambala, Kṛṣṇācārya, Tailapāda, Lūyipāda, Bhusuka... Tuy những bài thơ này mang tính giáo dục, nói về thói hư tật xấu (dohā) và tu hành (caryāpada), về bản chất nói chung giống với giáo nghĩa sau này của Kim cương thừa, đôi khi được xem như một ‘phái’ mới, đó là Sahajayāna (Tự nhiên phái), nhấn mạnh quan điểm rằng ‘pháp môn’ mới rất đơn giản và tu tập theo sẽ thể nghiệm được tính đồng nhất của mình với thực tại tuyệt đối, là hành vi ‘tự nhiên’ nhất, ngoài ra không quan tâm gì khác.