• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Tập 2
  3. Trang 36

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 35
  • 36
  • 37
  • More pages
  • 47
  • Sau

Quỷ hủy diệt

“Giữa thành phố có một ngôi chùa rộng lớn và kiên cố hơn những ngôi chùa khác, không thể nào diễn tả được”. Sultan đã viết như thế để ca ngợi ngôi chùa này: “Nếu người nào muốn xây dựng một công trình kiến trúc tương tự, người ấy phải sử dụng đến một trăm nghìn đồng dinar đỏ (đơn vị tiền vàng Ba Tư) và mất đến hai năm, mà những người thợ này phải giàu kinh nghiệm và khéo léo nhất mới có thể hoàn thành.” … Sultan đã ra lệnh đem dầu và lửa đốt sạch các ngôi chùa và san bằng tất cả.28 “Nhiều cư dân ở đây đã tháo chạy và trốn sang nước khác… Họ đã trốn chạy như thế và những người không chạy kịp đều bị xử tử”.29 “Hồi giáo hay chết là khẩu hiệu mà Mahmūd đặt trước mọi người”.30 “Muhammad Bakhtiyar với tính tình hung hãn và tàn bạo tiến vào một cổng thành (nguyên văn: trường đại học Uddaṇḍapura) và chiếm cứ nơi này, cướp đi những đồ vật. Cư dân ở đây đa số theo Bà-la-môn cạo trọc đầu (cũng có nghĩa là tu sĩ Phật giáo). Họ bị giết chết. Một lượng lớn sách vở được tìm thấy và khi Muhammadans thấy, hắn ta ra lệnh cho một số người giải thích nội dung, nhưng tất cả họ đều bị giết sạch. Chúng ra sức rà soát ‘thành’ này và thành phố, phát hiện ra trung tâm nghiên cứu học thuật ở đây. Từ Behar (vihāra, chùa) trong tiếng Hindi nghĩa là ‘trường học’”.31 “Khi tiến quân vào họ bao vây lấy nó… Thành phố trong phút chốc biến thành thảm họa và Thượng đế đã tràn ngập thành phố này cùng năm đó. Cấm dân chúng thờ Budd (tượng Phật) và bị Muhammadans đốt sạch. Một số nguời dân cũng bị thiêu chết, số còn lại bị đem ra giết”.32 “Muhammadans trả lời: Nghĩa vụ tôn giáo trung thành chứa đựng giáo điều như sau: ‘Đó là đóng góp cho sự gia tăng số lượng mà giáo điều của nhà tiên tri được truyền bá và tín đồ của Ngài phải cố gắng phá bỏ tín ngưỡng sùng bái thần tượng, như vậy họ sẽ được thưởng công lên thiên đàng”; như vậy người đó phải có nhiệm vụ cùng với sự giúp đỡ của Thượng đế, nhổ hết gốc rễ tôn thờ thần tượng trên khắp Ấn Độ”.33 “Đây là nguyên tắc của tổ tiên ta có từ thời Asadulla Ghalib cho đến ngày nay: Cải đạo cho những tín đồ dị giáo tin tưởng vào Thượng đế và Hồi giáo. Nếu họ theo giáo điều của chúng ta, thì đó là điều tốt đẹp. Nếu không, chúng ta đặt chúng vào lưỡi kiếm”.34 “Quân đội của Muhammadan bắt đầu giết và tàn sát phía bên phải rồi sang bên trái không chút thương xót, càn quét trên lục địa dơ bẩn này, vì lợi ích của Hồi giáo”, và máu đã chảy thành sông. Chúng đã cướp đi vàng bạc quá cả tưởng tượng, cùng với vô số ngọc ngà châu báu… Chúng bắt bớ một lượng lớn nam thanh nữ tú, tính đến 20.000 người, kể cả trẻ con trai lẫn gái, ‘không bút mực nào tả xiết’… Tóm lại quân của Muhammadan hủy diệt hoàn toàn đất nước này, sát hại sự sống của người dân ở đây, cưỡng đoạt những thành phố, bắt đi con cháu của họ, kết quả nhiều chùa chiền đền miếu bị phá hủy, thành hoang phế và đập phá tượng thờ và giẫm đạp dưới chân…”35 “Cháu của Dahir, binh lính của hắn ta và quan viên triều đình đều bị xử tử, tín đồ của tôn giáo khác chuyển niềm tin sang Hồi giáo hoặc bị giết. Thay thế tự miếu thời ngẫu tượng bằng các thánh đường và xây dựng nơi cầu nguyện, thiết bày bục thuyết giảng, đọc tụng thánh huấn Khutba, kêu gọi người cầu nguyện tập trung, tham dự những buổi cầu nguyện đúng giờ. Hàng ngày hai buổi sớm tối cử hành takbir và xướng tụng Thượng đế chí tôn”.36 “… ra lệnh trục xuất những cư dân không phải của Hồi giáo ra khỏi Kashmīr… Nhiều Bà-la-môn không từ bỏ tôn giáo và đất nước của mình đã uống thuốc độc tự vẫn; một số rời quê hương trốn ra nước ngoài, chỉ còn số ít theo Muhammadans để khỏi bị sự ác độc truy đuổi. Sau sự di cư của Bà-la-môn, Sikandar ra lệnh phá hủy các tự miếu ở Kashmīr… Giữa những nguyên tắc hay ho khác của Sikandar thì trong đó có lệnh cấm bán rượu…”37 “… hắn ta bất ngờ tấn công vào những căn cứ khởi nghĩa và bắt tất cả họ, con số có đến 12.000 cả nam lẫn nữ, kể cả trẻ em - họ bị giết bằng lưỡi kiếm. Hầu hết thành lũy và căn cứ của họ đều bị càn quét và thanh trừng, cướp đi nhiều tài sản. Tất cả để cảm ơn Thượng đế đối với chiến thắng này của Hồi giáo!”38 “Amir tiến quân sang Lamghan, đây là một thành phố nổi tiếng lớn mạnh và tài nguyên giàu có. Hắn chinh phục nó và đốt phá những vùng lân cận mà dân chúng ở đó theo đạo khác, thiêu hủy miếu thờ ngẫu tượng, thiết lập Hồi giáo. Hắn tiến quân và bắt bớ ở những thành phố khác và giết những người dân ở đó, hủy diệt những người theo tín ngưỡng sùng bái ngẫu tượng để thỏa mãn tham vọng của Hồi giáo. Sau khi chém giết và hành hình vô số người, bàn tay của hắn và đồng bọn trở nên lạnh lùng, cướp vô số tài sản giá trị ở những nơi đánh chiếm. Sau khi hoàn thành sự chinh phục của mình, hắn quay lại và báo cáo những thắng lợi đã đạt được vì Hồi giáo và tất cả lớn bé cùng nhau vui mừng với kết quả này, cám ơn Thượng đế”.39

28. Elliot: The History of India as told by its own Historians (Lịch sử Ấn Độ được viết do chính những sử gia của họ), tái bản lần hai, Calcutta, 1952. Vol. V, tr. 39 trở xuống. (‘Utbi’).

29. Sđd. tr. 41.

30. ‘Utbi’, trích dẫn của Majumdar, History and Culture of the Indian People (Lịch sử và Văn hóa của người Ấn Độ), Vol. V, tr. 499.

31. Elliot, sách trước, Vol. XVI, tr. 54 trở xuống. (Minhajus Siraj)

32. Sđd. XVII, tr. 102 trở xuống. (Ibn Asir).

33. Sđd. XVIII, tr. 30 trở xuống. (Firishta).

34. Sđd. XVIII, tr. 123 (Chishti).

35. Sđd. XXII, tr. 47 trở xuống. (Wassaf).

36. Sđd. XXV, tr. 66 (Chach-Náma: Muhammad Kasim sau khi chinh phục một nước thịnh hành Phật giáo về báo cáo lại với Hajjaj).

37. Firishta, trích dẫn của Majumdar, sđd., Vol. VI, tr. 379.

38. Elliot, sđd., Vol. XVI, tr. 141.

39. Sđd. V, 18 trở xuống.

Những ví dụ này tìm thấy trong nguồn tư liệu Hồi giáo đủ để minh họa chính sách của vị vua cuồng tín một tôn giáo mới phát sinh ở Ả-rập vào thế kỷ VII. Sử gia Tāranātha Phật giáo giải thích sự kiện ‘hủy diệt Phật giáo’ hoặc tôn giáo Mleccha (người man rợ) như là do thần Chết (Māra) gây ra, hắn dẫn dắt những vị vua này vào đường tà (đặc biệt là những vị vua của Thổ Nhĩ Kỳ). Thật không thể tưởng tượng sự diệt tận hoàn toàn tôn giáo cũ ở những đất nước mà quân Hồi giáo xâm chiếm trong một giai đoạn dài.40 Nhưng Ấn Độ thì không bị chinh phục hoàn toàn và những vùng rộng lớn khác vẫn được duy trì dưới sự thống trị của người Ấn Độ; một số bộ phận chưa bị tàn phá hoàn toàn vào lúc kẻ xâm lược và cướp bóc Hồi giáo tấn công; một số chùa đền vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt ở những vùng xa xôi hẻo lánh (bộ phận này ngày nay được xây dựng lại) chịu những vết sứt mẻ trên bề mặt vì chúng không đủ thời gian và công cụ để phá hoại. Bởi khẩu hiệu thông thường của Hồi giáo về những gì chúng hiểu là ‘ngẫu tượng’ (but hay budd) thực tế được vay mượn từ tiếng Phạn (hoặc Prakrit) là buddha (Phật-đà), chúng ta có thể tưởng tượng rằng những ‘kẻ phá hủy tượng Phật’ trong chiến dịch hủy diệt tôn giáo của chúng nhất định đã chuẩn bị kế hoạch kỹ lưỡng, tìm và diệt Phật giáo.

40. Tham khảo Kālacakra I. 26: Siddhāntānārn vināsah

Chúng ta không có chỗ để đi vào chi tiết sự hủy diệt của Hồi giáo. Sau khi Ba Tư diệt vong ở thế kỷ VII, những kẻ chinh phục Ả-rập đã cấu kết với các dân tộc du mục Thổ Nhĩ Kỳ ở biên giới phía Bắc của đế quốc Ba Tư, họ vui vẻ tiếp nhận lời khuyên của những bộ tộc du mục đồng minh rất thành công chống lại kẻ thù truyền kiếp của họ. Toàn bộ Trung Á lúc này rất thịnh hành Phật giáo, nhưng đồng thời là một vùng của đa tôn giáo, đều bị kiếp nạn người Ả-rập và Hồi giáo xâm lược, trong khi đó Iran tiếp tục tiến bộ nhờ lợi thế là một quốc gia nằm ở phía tây dưới sự thống trị của một triều đại Ấn Độ, đó là nước Jāguḍa (hiện nay là Kandahar thủ đô ở Gajani, do vương triều Yādavas thành lập), chúng bị kháng cự ở đây vào năm 650 TL. Đầu thế kỷ VIII, quân Ả-rập đã tấn công Sindhu bằng cả đường bộ, đường biển và dần dần chiếm được. Từ cơ sở này tiến sâu vào Ấn Độ, rồi chúng đã hủy diệt Valabhī ở thế kỷ đó, nhưng bị những kẻ thống trị người ‘Rājput’ Ấn Độ kiên quyết chống trả, cầm chân ở biên giới Sindhu (đặc biệt là phái Pratīhāras). Lúc bấy giờ có nhiều tu sĩ Phật giáo từ mạn tây đến tị nạn ở vương quốc Pāla. Đương thời, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành kẻ bá quyền Hồi giáo ở châu Á. Chúng tấn công Jāguḍa, vì nó cản trở đường đi đến Ấn Độ giàu có huyền thoại, và đã chinh phục được nó hoàn toàn vào cuối thế kỷ IX (dòng họ Yādava rút về Rājasthān, họ có thể kiến thiết vương triều ở Jaisalmir). Thủ đô cũ của vương triều Yādava là Gajani (Ghazni) sau đó trở thành căn cứ địa của quân Thổ Nhĩ Kỳ để tiến thêm bước nữa tấn công đế quốc ở Gandhāra. Gandhāra bao gồm Kāpiśa và Kubhā (Kābul), trước đây dưới quyền thống trị của triều đại ‘Ṣāhis’ hoặc ‘Kṣatriyas’ mà những vị vua này dường như đã tuyên bố bắt nguồn từ những vị đại đế Kuṣāṇas, nhưng đến giữa thế kỷ IX dưới quyền thống trị triều đại ‘Ṣāhi’ thuộc Bà-la-môn, ông ta chiếm lấy vương quyền, sau đó thành lập một đế chế rộng lớn. Họ có thể chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ trải qua một thế kỷ, thế rồi một triều đại mới Thổ Nhĩ Kỳ (Yamīnīs) được thành lập ở Gajani, sau đó phát động cuộc chiến tranh mang tính quyết định xâm lăng Gandhāra. Trận chiến này kéo dài làm cho Ấn Độ chịu nhiều khổ nạn chưa từng có. Những tác giả Ấn Độ đương thời nói về ‘những cuộc chiến chống lại quân Thổ’ là một hình thức mới của chiến tranh, hoàn toàn khác những trận giao phong của các hiệp sĩ truyền thống giữa các quý tộc Ấn Độ. Ấn Độ gồng mình chiến đấu để bảo vệ và cứu lấy văn minh của mình trước sự hủy diệt trầm trọng. Một loạt cuộc chiến ở cuối thế kỷ X và đầu thế kỷ XI, vua Ṣāhis dần dần bị đẩy lùi vào vùng núi xuyên qua Kāpiśa và Gandhāra. Năm 1020 họ thất thủ mọi thứ và những người sống sót cuối cùng của dòng họ này phải lưu vong đến Kaśmīra hoặc Mālava, thuộc vương quốc của Paramāra Rājput. Thủ lĩnh của quân Thổ sau đó tấn công lãnh thổ của vua Pratīhāra, may mắn cho hắn ta tình trạng hỗn loạn tại dây vì những lãnh chúa phong kiến đang tranh thủ độc lập từ vị hoàng đế này. Mahmūd đã tấn công bất thình lình, chiến thắng cứ thế vươn xa và rộng vào những năm tiếp theo, thu giữ vô số chiến lợi phẩm và nô lệ không đếm xuể, ngoài ra chúng đã thiêu hủy hàng nghìn đền chùa (lấy đi nhiều vàng bạc và châu báu). Mathurā bị cướp phá (như sự mô tả ở đầu phần) và sau thất bại của quân chủ lực của Pratīhāra, thủ đô Kānyakubja bị cướp sạch. 10.000 đền chùa cùng với tất cả tác phẩm điêu khắc ở đó nghe nói bị phá hủy hoàn toàn, đồng thời người dân bị chặt đầu bằng kiếm. Cuối cùng Mahmūd bị vua Vidyādhara của vương triều Candrātreya chống cự và buộc rút lui, nhưng hắn ta vẫn giữ được tất cả những vùng đất đã chiếm trước đây của vua Ṣāhi, bao gồm cả Panjāb và sáp nhập Sindhu vào vương quốc của mình. Như vậy, vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ rộng lớn đã được hình thành ở Ấn Độ. Hơn 150 năm sau đó diễn ra một loạt cuộc chiến tranh giữa quân Thổ Nhĩ Kỳ và các vương quốc ở Ấn Độ nhưng vẫn không có gì chuyển biến. Điều đáng chú ý là những vương quốc của Ấn Độ vẫn bị phân chia và phân tán, không nước nào đạt đến khả năng bá quyền đối với toàn bộ các nước khác. Năm 1173, một kẻ thống trị Thổ Nhĩ Kỳ có tên là Muhammad, đến từ Trung Á, lật đổ vương triều Yamīnīs. Năm 1178 hắn đã tấn công vương quốc Gujarat nhưng thất bại thảm hại và đánh mất toàn bộ quân đội của mình. Y như rằng, những người Ấn Độ phân tán nhưng thật sự không có gì để sợ quân Thổ, một nước nhỏ cũng có thể đánh cho chúng tan tác. Một quyền lực đang hưng khởi ở Rājput, đó là vương triều người Cāhamānas, tập trung đầu tư cho những cuộc chiến chống lại Gāhaḍavālas mà ông ta lúc bấy giờ đã nỗ lực hòng phát huy quyền lực từ Kānyakubja, cũng như chống lại vương quốc Gujarat và vương triều Candrātreyas, mặc dù họ là những nước láng giềng của quân Thổ. Họ đã đánh bại quân Thổ vào năm 1190-1191, lấy lại một phần thuộc Pạnāb và tự tin kiến thiết một đế quốc hùng mạnh, nhưng Muhammad đã tập trung đội quân mới ở Gajani và tạo nên sức mạnh vô địch vào năm 1192. Vì quá tự tin, Cāhamānas bị đánh bại bởi một sách lược thận trọng hơn và bị đẩy lùi tận kinh đô của họ (Ajayameru, Ajmere), bỏ con đường phía đông đi vào bình nguyên Nam Ấn Độ rộng mở. Năm sau, Muhammad đã ra lệnh cho một đại tướng mang quân tấn công vương quốc Gāhaḍavāla, bao gồm Vārāṇasī cũng như Kānyakubja. Hắn ta chiến thắng, Vārāṇasī bị cướp phá và nghe nói 1.000 đền chùa bị thiêu hủy, đồng thời thánh đường được xây dựng trong các di chỉ của họ. Qua khỏi Vārāṇasī là lãnh thổ chính thức dưới sự thống trị của triều đại Pālas, nhưng vương triều này bị các lãnh chúa người Senas lật đổ năm 1162, sau đó đế quốc của họ bị chia thành nhiều nước nhỏ. Người Senas đã thất bại trong việc kiến thiết một vương triều lớn mạnh. Những gì đã xảy ra trong thế kỷ XIII thì không rõ, nhưng sử gia Tāranātha bảo rằng ‘những người sùng bái tín ngưỡng thờ thần Īśvara’ (Thượng đế, cũng là Śiva hay Viṣṇu), có lẽ là người Senas, không phản đối người Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì âm mưu liên kết với nhiều kẻ thống trị của các nước chư hầu để mở rộng bá quyền về mạn đông. Những nguồn tư liệu Thổ Nhĩ Kỳ xác nhận điều này cùng với sự kiện sáp nhập Bihar và Bengal chỉ bằng đội kỵ binh nhỏ do một lãnh binh Thổ Nhĩ Kỳ mạo hiểm cầm đầu, đó là Bakhtyār. Hầu hết trường đại học vĩ đại của đế quốc Pāla trước đây bỗng nhiên lâm vào cảnh chết chóc và bị thiêu hủy. Đại học Uḍḍaṇaḍāpủa trở thành một sơ sở của quân Thổ Nhĩ Kỳ, và đám quân phiệt này xuất phát từ đây để tấn công Nālandā lần nữa, cách đó vài dặm, chém giết và phóng hỏa, tuy nhiên chúng không thể phá hủy những bức tường dày của trường đại học và kiến trúc của ngôi chùa hùng vĩ này (rõ ràng chúng càng hung hãn hơn hoặc càng manh động hơn trong việc đối xử với những tòa nhà thư viện ở đây). Những cuộc đột kích tương tự được ra lệnh đến phá hủy các trường đại học khác.41 Hệ thống trường đại học là một phần di sản rất lớn đối với văn hóa Ấn Độ, kiến thức thông thường cũng như Phật giáo, bị tiêu hủy mãi mãi. Năm 1206, Bakhtyā cầm đầu đám quân lớn mạnh tiến về phía Đông chuẩn bị cho cuộc đại chiến xâm lăng Kāmarūpa (tiểu bang Assam) và Tây Tạng; quân Thổ từng chiếm đóng Tây Tạng trước đây. Ở Kāmarūpa, quân đội của hắn bị thất bại và bị tiêu diệt, bản thân hắn cũng bị giết. Hành lang quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vẫn được duy trì xuyên qua Bắc Ấn Độ và nhiều người Thổ Nhĩ Kỳ định cư tràn ngập Ấn Độ, đặc biệt sau khi quân Mông Cổ chinh phục Trung Á ở thế kỷ XIII, đã đẩy chúng lùi về phía nam và đông. Từ cơ sở này, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã nỗ lực hòng dần thôn tính toàn cõi Ấn Độ và vào thế kỷ XIV đã tiến đến phía nam xa xôi, đối diện Tích Lan, nhưng sự kháng cự của người Ấn Độ đến năm 1336 đã lớn mạnh ngang bằng lực lượng cuồng tín Thổ Nhĩ Kỳ, họ chọn vương quốc Vijayanagara làm căn cứ địa, thành lập một đế quốc Ấn Độ thống nhất ở phía nam, củng cố địa bàn của họ, tuy nhiên vẫn chưa thể đánh đuổi quân Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi Bắc Ấn.

41. Ví dụ chùa Vajrāsana (ở Bod Gayā), do một người Tây Tạng tận mắt chứng kiến miêu tả, là Grobdudrtse; xem R. Sāṅkṛtyāyana trong JBORS XXIII, phần I, tr. 18.

Theo sử gia Tāranātha, đa số nạn nhân của Phật giáo đã lánh nạn sang Đông Nam Á (xuyên qua Miến Điện), phần lớn qua Tây Tạng và một số về Nam Ấn (Kaliṅga, ở đây còn duy trì nền độc lập cho đến thế kỷ VIII, Vijayanagara và một số vùng khác). Một số ít tu sĩ vẫn còn ở gần các trường đại học bị phá hủy giai đoạn đó. Ví dụ một người hành hương Tây Tạng viếng thăm Nālandā khoảng năm 1235, thấy một lão tăng đang dạy ngữ pháp tiếng Phạn cho 70 học trò ở tàn tích này. Chỉ một hai vị có sách (chắc chắn trước khi quân Thổ đốt phá thư viện, họ trốn chạy và mang theo sách vở). Thậm chí trong khi nhà hành hương này đến đó, một đám quân Thổ đột kích từ trong Uddaṇḍapura đi ra, mục đích là cố ý giết những vị tỷ-kheo cương quyết ở lại và lục soát tàn tích kỹ càng với hy vọng tìm thấy châu báu được chôn giấu. Những vị tỷ-kheo được cảnh báo từ đại học Uddaṇḍapura là phải đi đến những nơi xa an toàn. 300 tên lính Thổ Nhĩ Kỳ sục tìm trong phế tích rồi quay lại doanh trại của chúng, sau đó một số tỷ-kheo quay lại trường đại học bị đốt phá của họ. Nhà chiêm bái Tây Tạng đã không thấy cuốn sách nào để ông ta hy vọng sao chép, đành phải đi đến những vùng khác.42 Tāranātha chép lại rằng thậm chí sau sự kiện này có bốn vị thầy kế thừa công việc của trưởng lão Rāhulaśrībhadra như đã được đề cập ở trên. Tuy nhiên, không có hy vọng hồi phục sự nghiệp giáo dục Phật giáo trong khi quân Thổ Nhĩ Kỳ còn thống trị Ma-kiệt-đà. Trung tâm của Phật giáo đã bị phá hủy.

42. S. Dutt, Buddhist Monks and Monasteries of India, tr. 347f, trích dẫn căn cứ từ Roerich, Biography of Dharmasvāmin.

Sau khi Ấn Độ bắt đầu gánh chịu sự đau đớn, Bà-la-môn giáo dần dần tăng cường kháng cự một cách hiệu quả, hồi phục được nguyên khí, thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của Hồi giáo. Tại sao Phật giáo nhận lấy sự tàn ác của các kẻ tàn bạo Hồi giáo mà không có sự kháng cự gì cả, đây là vấn đề cần có ít nhiều suy xét. Phật giáo luôn là một hệ thống triết học và tôn giáo trong hòa bình ở mọi ý nghĩa của ngôn từ. Nhưng khi đối diện với một cuộc ‘thánh chiến’, kích động tín đồ mù quáng thù hận cướp bóc, cho đó không có tội gì cả nhưng vi phạm về mặt đạo đức, đối với những đất nước Phật giáo ở Trung Á và Tây Bắc Ấn Độ dĩ nhiên không thể tìm thấy các chiến binh có đủ tính cách như thế, không đủ tinh thần quỷ quyệt như vậy để bảo vệ chính họ. Giáo lý bất hại đã có tác dụng nhất định.43 Phật giáo chính thức trước đây đã truyền bá cho những người man rợ (đặc biệt là người Kuṣāṇas) và như vậy những người này đã thực hành nó nên không khuất phục trước sự tàn bạo của quân phiệt và sự hủy hoại của bạo lực. Nhưng đối với những người man rợ mới chưa thâm hiểu thì lại khác. Họ chưa được khai mở trí óc về nhân tính nên họ đi chinh phạt, vì họ có tôn giáo riêng, thích hợp với mục đích chinh phạt với bao biện cho sự ảo tưởng và cổ súy nó. Người Quý Sương đã nhận thấy trong Phật giáo ý nghĩa tốt đẹp để củng cố một đế quốc rộng lớn bằng sự thúc đẩy hài hòa trong nhân loại. Quân Thổ Nhĩ Kỳ đã không quan tâm sự hài hòa này (cho đến thời của Akbar, cuối thế kỷ XVI) mà chỉ quan tâm đến sự bành trướng và tích lũy của cải cướp đoạt, bắt bớ nô lệ càng nhiều càng tốt. Phật giáo thì cho đây là toàn bộ cách sống của tội ác, Hồi giáo thì cổ vũ và ca tụng nó như một mệnh lệnh của Thượng đế. Ở đây thật sự là sự ‘trái ngược’, nó kích động tất cả tham dục mãnh liệt mà đối với Phật giáo là vi phạm nguyên tắc đạo đức (xem Chương 6). Ở đây là bạo lực, tàn bạo, cưỡng đoạt và hủy hoại những công trình văn hóa của nhân loại. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã chọn con đường bạo lực, cưỡng đoạt toàn bộ Ấn Độ, hủy diệt văn hóa của nó.

43. Ví dụ Abhidharmakośabhāṣya IV, tr. 72; Như trong tình huống chiến tranh, săn bắn và công thành, nhiều người tụ tập tấn công, đột kích với mục đích giết người và sát hại mạng sống; ai là người chịu cảnh đó (bị giết chết)? - Chỉ có trong quân đội..., bởi vì có cùng mục đích, họ giống người thay mặt cho hành vi đó (27)… thực tế họ xúi giục nhau. Trong trường hợp một người bị cưỡng bức làm lính, anh ta phải tiếp nhận nhiệm vụ đó trừ khi anh ta hạ quyết tâm thế này: ‘Cho dù bảo vệ chính mình, tôi cũng sẽ không giết hại mạng sống của kẻ khác’.

Bà-la-môn giáo (Ấn Độ giáo) có tính đàn hồi hơn, dường như không gì là không thể. Ở Ấn Độ, nó mạnh hơn cả Phật giáo trong giai đoạn hủy diệt của quân Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt ở phía nam, đúng là những nơi kháng cự Hồi giáo rất hiệu quả. Thế thường có người cho rằng Bà-la-môn giáo, đặc biệt là giáo phái Vaiṣṇava và Śaiva đã dần dần được tiếp nhận, chiếm ưu thế hơn cả Phật giáo trong dân chúng Ấn Độ suốt thiên niên kỷ thứ nhất TL. Ngược lại, Phật giáo khuyến khích san bằng giai cấp và thực hiện chế độ dân chủ trong xã hội, Bà-la-môn giáo hài hòa với khuynh hướng phong kiến ở giai đoạn Trung cổ (chúng ta không cần đặt câu hỏi tại sao những khuynh hướng như vậy chiếm ưu thế) cổ súy giai cấp xã hội. Chủ nghĩa thần học, đặc biệt Nhất thần giáo của phái Vaiṣṇava hay Śaiva là kết quả tất yếu tự nhiên về giai cấp: Con người phó thác cho thủ lĩnh của họ, cho đấng quân vương trên thế gian của họ, và tất cả con người tuyệt đối phó thác linh hồn của họ cho Thượng đế. Thậm chí trong Phật giáo, cho dù có một khuynh hướng ‘hữu thần’ (theistic) có thể nhìn thấy được, cho dù thực tế chỉ biểu hiện ở bên ngoài, ở mặt tục đế (bất liễu nghĩa), nhưng hiển nhiên giáo phái thờ thần Śiva có ưu thế hơn bóng mờ của thần Hevajra rồi biến mất trong tính không. Sau đó, phần lớn ở Ấn Độ, đặc biệt ở phía nam, Bà-la-môn giáo trong nhiều hình thức ở thế kỷ XII ‘thịnh hành’ hơn Phật giáo. Lại nữa Phật giáo phải nói có trình độ triết học lớn hơn và thực tế là một truyền thống hàn lâm ở giai giai đoạn này. Trọng tâm của truyền thống này nằm ở những trường đại học chứ không ở trong quần chúng. Khi trường đại học bị hủy hoại thì sức mạnh của truyền thống đó cũng bị đứt đoạn. Quần chúng không hiểu nhiều về triết lý cao siêu, có lẽ họ đã không thấy nó và khác xa với những gì giáo phái Vaiṣṇava nói; và tôn kính đức Phật và chư vị Bồ Tát thì cũng giống với tín ngưỡng bên cạnh tôn thờ thần Kṛṣṇa và những bậc thánh trong phái Vaiṣṇava. Những tín đồ tại gia không quan tâm đến các tu sĩ có học thức Phật giáo và họ có khuynh hướng hòa lẫn vào sự thờ cúng bản địa muôn màu muôn vẻ của Bà-la-môn giáo. Truyền thuyết Bà-la-môn kể rằng có một số triết gia Vệ Đà như Śaṃkara hoặc Kumārila từng chiến thắng các triết gia Phật giáo trong biện luận và như vậy tín ngưỡng Vệ Đà thịnh hành. Về phía Phật giáo, có những câu chuyện truyền thuyết kể lại Pháp Xứng chiến thắng Śaṃkara hoặc Kumārila. Thật tế, lịch sử ủng hộ tuyên bố của Phật giáo, vì về sau Pháp Xứng đã thành công hơn hai vị triết gia này, phủ nhận quan điểm của họ trong những tác phẩm của mình và đã xây dựng một trường phái cao cấp nổi tiếng để tiếp tục con đường nghiên cứu về triết học. Nhưng tất cả điều này không có ảnh hưởng đến quần chúng bình thường. Thực tế có lẽ cả Pháp Xứng và hai triết gia Vệ Đà không có gì khác biệt trong vấn đề bí mật và nghi lễ trừu tượng cổ điển, không có chút ảnh hưởng gì đối với mọi người. Bà-la-môn giáo có nghĩa thuộc về giáo phái Vaiṣṇava và Śaiva chứ không phải tư tưởng Vệ Đà, và những triết gia của giáo phái Vaiṣṇava và Śaiva mạnh mẽ phê phán phái Vedānta, vô thần của Śaṃkara và chủ nghĩa nghi lễ Vệ Đà.

Sức mạnh của Bà-la-môn giáo đã chứng tỏ bản thân nó không đối nghịch với Phật giáo (cả hai thường sống dung hòa bên nhau) nhưng kháng cự chống lại Hồi giáo thành công, còn Phật giáo bị triệt hạ. Chiến binh Vệ Đà sẵn sàng chiến đấu, hiểu điều này là trách nhiệm của họ và hy sinh trên chiến trường là vinh quang nhất (thẳng tiến đến thiên đàng như một phần thưởng vì đã thực thi nhiệm vụ). Những câu chuyện truyền thuyết đã phát triển quanh các anh hùng đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ và duy trì truyền thống cổ xưa của Ấn Độ. Một loại hình văn học mang tính chất bình dân và anh hùng trong ngôn ngữ của con người kiên trì lý tưởng đấu tranh vì công bằng và đúng đắn, bảo vệ văn minh Ấn Độ chống lại chủ nghĩa dã man vô tình, khủng bố giết hại và bạo tàn vô sỉ. Kết quả, tinh thần của Ấn Độ đã hưng khởi. Khi tự do tinh thần và sự dung thứ cổ xưa được tái lập thì mới có khả năng phục hưng văn hóa Ấn Độ.

Kaśmīra đã rơi vào quyền thống trị của Hồi giáo thế kỷ XIV, dẫn đến sự ngược đãi và bạo lực (bao gồm cả cuộc ‘đốt phá sách vở’) của Sikandar vào đầu thế kỷ XV, Phật giáo dường như bị tiêu diệt hoàn toàn, ngoại trừ ở Ladakh vẫn duy trì được sự hưng thịnh của Phật giáo (cũng như tất cả những nước ở Himālaya, nơi Phật giáo tiếp tục tồn tại dưới sự ảnh hưởng vượt trội của Phật giáo Tây Tạng và một thời gian dài bỏ bê nghiên cứu kinh điển tiếng Phạn).

Sử gia Tāranātha ghi lại rằng một số người lánh nạn từ Ma-kiệt-đà đi về phía nam, tức Kaliṅga, Gujarat, Rājasthān, Vijayanagara (tuy nhiên Vidyānagara được thành lập năm 1336) và những nơi khác. Gujarat và Trung Ấn thất thủ khoảng năm 1300, Kaliṅga44 và thành phố Vijayanagara (mặc dù thành phố này bị san bằng nhưng quân Hồi giáo đã rút lui, tuy nhiên lãnh địa của vương quốc phía nam này bị thu hẹp và quyền lực trung ương của nó yếu đi trong tay của một loạt lãnh chúa địa phương) vào thế kỷ XVI. Lúc bấy giờ những gì Phật giáo còn lại khi chiến tranh tàn phá lướt qua ở phía nam dường như cũng phải di chuyển sang Tích Lan.

44. Theo sử gia Tāranātha, (tr. 256f), Mukundadeva (vị vua cuối cùng của Orissa hoặc Kaliṅga, ông ta bị Akbar của quân Thổ Nhĩ Kỳ đánh bại năm 1568 hoặc 1570) đã ủng hộ Phật giáo xây dựng những ngôi chùa và hoằng dương Phật pháp tồn tại trên thế gian một thời.

Người Thổ Nhĩ Kỳ đã không thành công hoàn toàn trong cuộc Hồi giáo hóa ở Bắc Ấn. Ấn Độ quá rộng, người quá đông, địa hình quá cách trở và thường bao quanh lãnh địa của người Thổ Nhĩ Kỳ là các vương quốc Ấn Độ độc lập hoặc chỉ tạm thời. Trên hết, tinh thần của người Ấn Độ không bao giờ bị khuất phục và thậm chí những vùng đất bị chinh phục trong một thời gian dài vẫn sống còn bằng văn học bình dân trong ngôn ngữ địa phương (hầu hết liên quan đến phong trào tín ngưỡng Vaiṣṇava), đa số được sáng tác dưới sự ủng hộ của những vị vua độc lập (Rājasthān, Kaliṅga, Tīrabhukti...) và sau đó lưu hành trong những vùng của Thổ Nhĩ Kỳ. Vào thế kỷ XVI, hầu hết người dân Ấn Độ vẫn là tín đồ của Ấn Độ giáo (Hindus).45 Akbar đã thành công trong việc mở rộng đế quốc của mình hầu hết lãnh thổ Ấn Độ, nhận thấy điều này đã đưa ra chính sách mới, thực tế là một chính sách có lợi cho người Ấn Độ, phản đối chính sách của Hồi giáo. Ông ta đã nhận ra sự khoan dung của tôn giáo và do đó củng cố được đế quốc của mình, được một đội quân địa phương Rājput sáp nhập vào quân đội của ông ta (để chống lại vua Ba Tư Shah, vị vua tuyên bố quyền thống trị lên ông ta). Tuy nhiên, cũng vì lý do đó mà ông ta đã sỉ nhục Hồi giáo chính thống ở triều đình. Sau khi ông băng hà, sự khoan dung này cũng kết thúc và sự bức hại cũ lại bắt đầu, phá hủy đền và trường đại học của Ấn Độ, tái thu thuế tôn giáo đối với một tín đồ Ấn Độ giáo. Điều này đã dẫn đến những cuộc khởi nghĩa, trong đó người Marāṭhas dần dần nắm quyền kiểm soát, những người thừa kế đã mở rộng thành một vương quốc trên hầu hết phía Nam Ấn Độ, sau đó dang tay giải phóng phía bắc. Nửa đầu thế kỷ XVIII, họ đã đưa hầu hết Bắc Ấn Độ trên lưu vực sông Hằng quy về quyền thống trị của mình, chiếm lĩnh thủ đô (Delhi) của quân Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1750 và thiết lập chế độ bảo hộ lên hậu duệ của Akbar. Chúng ta không cần kể lại chi tiết sự phức tạp về chia rẽ nội bộ của người Marāṭhas và sau đó người Anh đã thiết lập nền đô hộ chứ không phải vương quốc của người Marāṭhas thế kỷ XIX. Điểm mang ý nghĩa quyết định là sức mạnh của Thổ Nhĩ Kỳ và sự thống trị của Hồi giáo đã sụp đổ, người Marāṭhas đã xây dựng lại sự khoan dung của tôn giáo lên toàn cõi Ấn Độ và người Anh kế thừa chính sách của người Marāṭhas trên lãnh thổ rộng lớn hơn. Điều này khiến cho Phật tử không cần giấu giếm việc hành hương chiêm bái đến Ấn Độ mà còn bắt đầu xây dựng lại Bodh Gāya (Bồ-đề đạo tràng), Sārnāth (Lộc dã uyển), những thánh địa thiêng liêng khác và một lần nữa xây dựng chùa chiền cho chư Tăng.

45.‘Hindu’ đơn giản là có cùng cội nguồn của người Sindhu và Indian của Ba Tư.