• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ - Tập 2
  3. Trang 37

Kết luận

Hậu quả sự xâm lăng của Ả-rập và Thổ Nhĩ Kỳ đã hủy diệt hầu hết trường phái Phật giáo thời kỳ đầu, những trung tâm truyền bá chính từng tồn tại ở Ma-kiệt-đà và Tây Bắc Ấn Độ. Trường phái duy nhất còn sống sót và hưng thịnh là Thượng tọa bộ, trung tâm của trường phái này ở phía Nam và đặc biệt ở Tích Lan, cùng với những chi nhánh lớn mạnh khắp Đông Nam Á. Ở Trung Quốc và các quốc gia ảnh hưởng Phật giáo từ Trung Quốc, những trường phái có trước hoàn toàn bị đồng hóa (ngoại trừ nghiên cứu mang tính hàn lâm về toàn bộ văn học A-tỳ-đàm và lấy Luật tạng làm nền tảng của giới luật: Kinh lượng bộ, Nhất thiết hữu bộ, Đa văn bộ và Pháp tạng bộ, như vậy đã tồn tại trong hình thức không hoàn toàn và suy giảm) vào Đại thừa, đặc biệt là trường phái Duy thức. Ở Tây Tạng và những quốc gia ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng thì các trường phái có trước không được chú trọng, vì chúng dường như chưa bao giờ được thiết lập ở Tây Tạng (ngoại trừ nghiên cứu mang tính hàn lâm về những chủ đề thuộc trường phái Kinh lượng bộ và Nhất thiết hữu bộ và về giới luật thuộc Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ). Những trường phái Đại thừa may mắn hơn, đã phát triển rộng rãi khắp Đông Á, nhưng ở đó Thượng tọa bộ vẫn trực tiếp duy trì truyền thống Ấn Độ, bảo lưu ngôn ngữ Ấn Độ (trong đó những vị tỷ- kheo của trường phái này tiếp tục sáng tác), những người theo trường phái Đại thừa hầu hết ở đâu cũng tiếp nhận ngôn ngữ Trung Quốc và Tây Tạng như loại hình ngôn ngữ của kinh điển và nghiên cứu, và dựa vào bản dịch của nguồn tư liệu gốc của hai ngôn ngữ này. Chỉ ở Nepal là Đại thừa Ấn Độ, biểu hiện trên một tổng thể dung hòa của tư tưởng Trung Quán - Kim cương thừa ở thế kỷ XII và của Phật giáo Tây Tạng, tồn tại liên tục không có sự gián đoạn nào nghiêm trọng, ở một nơi tách biệt và hẻo lánh, cho đến tận ngày nay. Xong Phật giáo Nepal ngày càng tiếp cận Tây Tạng để tìm kiếm sức mạnh và sự chỉ dẫn từ thành trì của Phật giáo này. Dần dần họ không chú trọng đến những kinh điển Ấn Độ và đưa học trò đến Tây Tạng tu học. Kết quả là truyền thống Ấn Độ không được duy trì nguyên vẹn và nhiều kinh điển bị thất lạc vì không được sao chép, mặc dù vậy bộ sưu tập chính về văn học Phật giáo bằng tiếng Phạn vẫn còn được bảo lưu, nhưng bản dịch tiếng Tây Tạng đã trở thành tiêu chuẩn. Như vậy Phật giáo đã tránh được tai nạn hủy diệt chỉ ở những vùng biên giới vượt ngoài tầm hủy diệt của Hồi giáo, cuối cùng chỉ còn lại Thượng tọa bộ và Trung Quán - Mật tông thuộc ngữ hệ Tây Tạng.

Dưới sự thống trị của Hồi giáo, một số truyền thống Phật giáo vẫn tồn tại liên tục một thời gian trong xã hội bình dân, tuy nhiên cộng đồng Tăng-già thì hoàn toàn bị hủy diệt, không còn sót lại vị thầy có năng lực để hướng dẫn họ. Truyền thống phổ cập hơn của Kim cương thừa thường được đề cập như chủ nghĩa ‘Tự nhiên’ (Sahajivā) tiếp tục tồn tại một giai đoạn ở Ma-kiệt-đà, Bengal và Orissa trên cơ bản là kệ tụng của Kṛṣṇācārya và những vị khác. Song nó dần dần cũng bị đồng hóa vào truyền thống tương tự Vaiṣṇāva sùng bái thần Kṛṣṇā, rồi truyền thống này phát triển thành một mặt của chủ nghĩa ‘Tự nhiên’ sau thời Trung cổ, kỹ thuật rất giống với Kim cương thừa sau này. Một bộ phận của truyền thống Kim cương thừa pha trộn với truyền thống thần bí Saiva (đặc biệt là cái được gọi là tôn kính sùng bái thần lực, ‘Nāth’) mà giáo phái này tiếp nhận từ nhiều sự chứng đắc thần thông của Phật giáo (siddhas), cho dù chỉ ở danh nghĩa. Ít nhất đã hấp thu những truyền thống dân gian của Phật giáo cái được gọi là tôn kính pháp (Dharma), đầu tiên ở Orissa (ở đây Phật giáo và tổ chức Tăng-già tồn tại lâu hơn, cho đến giai đoạn xâm lược của Hồi giáo ở thế kỷ XVI), sự tôn kính này vẫn tồn tại trong một số lễ hội của Phật giáo lúc bấy giờ. Ở đây pháp nghĩa là ‘không’, nhưng có khi lại được cho là Mặt Trời và thần Viṣṇu, ít khi được gán cho những vị thần khác. Sử dụng mạn-đà-la, mà những mạn-đà-la này được sánh với đồ hình trong kinh Cakrasaṃvara và những kinh điển Mật tông khác. Tuy nhiên sự tôn kính (sùng bái) này không có trong những kinh điển cổ xưa.

Thế kỷ XII, ở Tích Lan đã diễn ra hội nghị Tăng-già tại Pulastinagara (hiện nay là thủ đô) để lại kết quả tốt đẹp, chùa Abhayagirivāsins (Dharmarucis) và chùa Jetavanīyas (Sāgalīyas) được ‘hòa giải’ và tái nhập vào Thượng tọa bộ. Vua Parākramabāhu I là người hộ trì và làm chủ tọa cho hội nghị này, đây là trường hợp có ghi chép thực tế về hòa giải những chia rẽ trong cộng đồng Tăng-già, và việc làm của nhà vua được các sử gia Thượng tọa bộ đem sánh với công trạng của đại đế Aśoka. Những sự việc tương tự dường như cũng đã diễn ra ở Nam Ấn Độ (Cola) và Đông Nam Á, kết quả đoàn kết quy về Thượng tọa bộ cho dù ở đâu (ngoại trừ Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng từ Trung Quốc) và các tông phái khác đều biến mất (bao gồm cả Đại thừa). Song song với sự đoàn kết này là tư tưởng dung hòa Trung Quán - Kim cương thừa của người Tây Tạng ở rặng Himalaya và có lẽ phản ánh sự suy vi của toàn bộ Phật giáo chính từ sự hủy diệt, xóa sạch nhiều trung tâm cổ đại của Phật giáo dưới bàn tay hung tàn của quân Thổ Nhĩ Kỳ. Những tu sĩ Ấn Độ của nhiều trường phái đã rời Ấn Độ, cho dù đến nước nào, họ đều hết lòng phụng sự các tông phái Phật giáo của họ.

Sự phục hồi của Phật giáo ở Ấn Độ bắt đầu khởi sắc vào thế kỷ XIX và lớn mạnh dần vào thế kỷ XX. Phật giáo ở Tích Lan (Thượng tọa bộ) có lẽ đã phát huy vai trò đứng đầu, đặc biệt là đầu tư kiến thiết chùa mới, ví dụ ở Nālandā (một lần nữa tái lập học viện và có thể một lần nữa trở thành đại học), ở Sārnāth (Vārāṇasī) và ở Sāñcī (Caityagiri), trung tâm cổ đại của Thượng tọa bộ). Phật giáo Thái Lan cũng không hề thua kém, trong khi đó Tây Tạng, vốn là nước láng giềng của Ấn Độ, thì dòng người vẫn tiếp tục hành hương đến chiêm bái các thánh địa ở đó, đem lại sinh khí thiêng liêng đối với việc ‘hành hương chiêm bái’. Những đoàn người Tích Lan tự hào tuyên bố thành công trong việc truyền bá giáo lý trở lại Ấn Độ, nhưng có thể hơi sớm, dường như vượt quá phạm vi của sách này để quan sát Phật giáo Ấn Độ ngày nay. Ấn Độ hiện nay một lần nữa tuyên bố những di sản cổ đại của họ, bao gồm di sản Phật giáo, nhưng hoàn toàn không liên quan đến những tín đồ Phật giáo đã nỗ lực ở mặt truyền bá giáo lý tại đây, hoặc một phần thu hút được xã hội hưởng ứng thời đại mới thoát khỏi sự nghèo đói bị giam hãm lâu dài trong chế độ giai cấp phong kiến ở mặt chính trị. Chính phủ Ấn Độ (đặc biệt bang Bihar, Ma-kiệt-đà cổ đại) đã tài trợ kinh phí ủng hộ công cuộc nghiên cứu Phật học và một lần nữa truyền thống hàn lâm Phật giáo trở thành một phần quan trọng mang tính nhân văn ở các trường đại học Ấn Độ. Điều này cũng đóng góp cho thế giới trong hoạt động phục hưng nghiên cứu Phật học.

Giáo lý Phật giáo, đặc biệt là cương lĩnh xã hội không bạo lực và sự thâm cứu về vấn đề tự do, luôn đồng hành với nhân loại. Điều này không được đem ra thực hành liên tục, vì bị quét sạch ở Ấn Độ mấy thế kỷ trước, vì không trả lời ngay được về sự bạo tàn của Hồi giáo. ‘Thần Chết’ đã ngự trị tự do. Tuy nhiên, xảy ra điều này là bởi một số người ở phương Tây và Trung Á nắm trong tay quyền lực lớn áp đặt lên ý chí ở những nước láng giềng, họ đã chọn bạo lực, hoặc chiến tranh và cướp bóc để tôn vinh như của một tôn giáo. Do chưa được tiếp nhận lý tưởng Phật giáo rộng rãi, chưa thể phổ cập, chỉ được phát triển ở những dân tộc mới thì có thể bảo vệ và truyền bá văn hóa Ấn Độ, đặc biệt ở thời kỳ xâm lược của nước Kuṣāṇa (mặc dù ở thời đại hắc ám này Phật giáo đã được truyền đến Mông Cổ). Ngày nay chúng ta sống trong thế giới rất khác biệt. Bạo lực và không bạo lực, những điều này cuối cùng không có lối thoát. Dù muốn hay không, những người cùng đảng phái bị lôi kéo đối mặt với chiến tranh, nếu đeo đuổi như trước đây, sẽ dẫn đến không những gây chết chóc cho một số người bị hại hoặc người không quan trọng, mà còn là sự hủy diệt của toàn nhân loại, bao gồm chính họ. Nhưng sự cướp bóc thu được từ chiến lợi phẩm dồn về cho kẻ chinh phục sẽ bị hủy diệt trong tiến trình của sự thèm muốn chiếm đoạt chúng. Nhận thức về tính bất khả thi của bạo lực không thể khác, cho nên phải nhận thức được những nguyên tắc đạo đức xã hội trước đây của Phật giáo. Nghiên cứu về vấn đề tự do cho thấy xã hội con người luôn mong muốn hưởng thụ hòa bình và an toàn là điều tự nhiên chứ không phải càn quét trong cảnh hỗn loạn của chủ nghĩa quân phiệt cùng với sự tuyên truyền ngoa ngụy. Trong xã hội bị bủa vây bởi bạo lực và quân đội, thì những chữ như ‘tự do’ được hầu hết mọi người nhận thấy thật hấp dẫn và bị nhồi nhét trong nghĩa hoàn toàn ngược lại, dùng nó để động viên con người đi đến sự nghiệp bạo lực. Điều này chỉ che lấp chân lý, che giấu sự thật và lạm dụng ngôn từ mới bằng mọi thủ đoạn. Sự thật, không bạo lực, tự do, khoan dung và những nguyên tắc khác không thể khác đi được. Nếu chúng ta chôn vùi một thì chúng ta sẽ mất tất cả. Giáo lý này đã được khảo sát trong cuốn sách, cho thấy tính thống nhất và bền vững tương quan với nhau trên tất cả các mặt của ‘điều thiện’ là rất rõ ràng.

Phải chăng Phật giáo là câu trả lời đối với vấn đề khổ đau của nhân loại, đó không phải là mục đích của tập sách này. Ở đây chúng ta đã nỗ lực làm sáng tỏ những gì thuộc về Phật giáo, giáo lý như đã được định nghĩa trong kinh điển, vì thế đây là điều cần biết trước tiên để đánh giá và vận dụng xây dựng những sự thật về Phật giáo. Đặc biệt chúng ta đã cố gắng phát hiện những gì thuộc về Phật giáo, trong ý nghĩa nghiêm túc về giáo lý của đức Phật khoảng năm 500 TTL và sắp xếp những mặt khác của Phật giáo Ấn Độ trong mối tương quan với những giáo lý đó. Nếu độc giả cảm thấy tập sách này chưa được hoàn hảo, thậm chí ở sự khảo sát Phật pháp cũng vậy, thì ít nhất người viết đã thành công trong những gì mà Phật giáo đã biểu hiện, đặc biệt trong tất cả hình thức của Phật giáo, là điều không hề đơn giản. Đồng thời người viết đã chứng minh được những nguyên tắc của Phật giáo là không mơ hồ hay huyền bí. Người viết đã nắm được cốt lõi Phật pháp từ Ba tạng giáo lý sớm nhất trình bày cho chúng ta và căn cứ vào những chứng cứ được xem là tinh túy nhất. Đây chỉ là những giọt nước sánh với biển cả, nhưng chúng ta đều biết rằng biển cả cùng một vị - đó là vị giải thoát.46

46. AIV 203, T 125 phần 42, số 4; T 26, số 35.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 36
  • 37
  • 38
  • More pages
  • 47
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 36
  • 37
  • 38
  • More pages
  • 47
  • Sau