Hầu hết tác phẩm này được đề cập ở Chương 12, còn lưu trữ trong bản tiếng Tây Tạng, cùng với nhiều tác phẩm sớ giải và sách chép tay về nghi lễ của Kim cương thừa... Chỉ những bản sớ giải có trước của Virūpa, Saraka, Kukkuri và những tác giả khác được các sử gia đề cập dường như đều bị thất lạc (bao gồm một số được đề cập với tên gọi khác). Ở đây có một số bản liên quan rất ít đến kinh điển Tây Tạng. Ở bản tiếng Trung Quốc, chúng ta nên lưu ý rằng Śubhākarasiṃha (Thiện Vô Úy) chỉ chọn dùng truyền thống khẩu thuật để giải thích kinh Mahāvairocana đi cùng với vị sư này đến Trung Quốc, như trong bản ghi chép ở hình thức khẩu thuật này chúng ta có T 1796 và T 1797 do các đệ tử của vị sư này trước tác. Ở dưới chúng ta đưa ra bảng danh mục một số tác phẩm được biết hiện còn trong bản tiếng Phạn.
Saroruha (hay Padmavajra): Padminī (Liên trì sớ), một bản sớ giải về kinh Hevajra, bản chép tay có trong Ngor.
Kṛṣṇācārya I: Yogaratnamālā (Du Già bảo man), giải thích kinh Hevajra, Snellgrove biên tập cùng với nguyên tác (xem ở trên).
Long Thọ III: Pañcakrama (Ngũ thứ đệ luận), L Vallée Poussin biên tập, xuất bản ở Université de Gand, 1896, và ở Ṭippaṇī của Parahitarakṣita.
Nguyệt Xứng II: Pradīpoddyotana (Kim nhật minh đăng sớ), bản chú giải của kinh Guhyasamāja), bản chép tay có trong Ngor và chế bản sao chụp ở Patna.
Āryadeva II: Sớ giải về kinh Ḍākinījāla (Trà ca nữ võng man kinh chú sớ), bản chép tay tiếng Phạn có trong bản Ngor.
Bhadrapāda: Sớ giải về kinh Saṃvara (Tổng trì kinh chú sớ), bản chép tay tiếng Phạn có trong bản Sa-skya...
Khuyết danh: Vimakaprabhā về kinh Kālacakra (Thời luân kinh tịnh quang minh sớ), bản chép tay có trong bản Ngor, Sa- skya...
Nāḍapāda: Sekoddeśaṭīkā (Thời luân kinh quy tích sớ), do Carelli biên tập, GOS 1941.
Abhayākaragupta: Niṣpannayogavali (Chân thật Du Già luận), do Bhattacharya biên tập, GOS 1949.
Advayavajra (Maitṛpa?): Advayavajrajrasaṅgraha (Bất nhị Kim cương luận tập), gồm hai mươi tác phẩm được người biên tập xác định là do Advayavajra trước tác, nhưng vấn đề tác giả thường có nhiều tranh luận bất đồng), do Haraprasād biên tập, GOS 1927.
Trong bản chùa Sa-skya, có những bản sớ giải chép tay về kinh Guhyasamāja (Nhất thiết Như Lai Kim cương tam nghiệp tối thượng bí mật đại giáo vương kinh chú), do Nāgabuddhi trước tác; về kink Kṛṣṇayamāri (Hắc thiên dạ-ma-lợi kinh chú) do Dharmadāsa trước tác, và về kinh Vajrabhairava (Kim cương bố úy kinh chú) do Kumāracandra trước tác, và nhiều tác phẩm chép tay bằng tiếng Phạn hiện còn ở những nơi khác; Bhattacharya đã biên tập và xuất bản trong GOS, 1929 (vol. 44), là bản sớ giải Jñānasiddhi (Thành trí luận) do Indrabhūti và Prajñopāyaviniścayasiddhi (Bát Nhã phương tiện quyết định thành tựu luận) do Anaṅgavajra trước tác.