Phật giáo phát sinh từ Ấn Độ, Nho giáo và Đạo giáo bắt nguồn từ Trung Quốc. Ba đạo này đều là những tư tưởng căn bản của Đông phương. Mối quan hệ của ba đạo này cũng được chép rất nhiều trong sách truyện của Trung Quốc.
Về Nho giáo, đức Khổng Tử là thủy tổ. Từ đời nhà Hán, Nho giáo đứng ở địa vị chỉ đạo về mặt tư tưởng đối với quốc gia. Tức là, vua Võ Đế nhà Tiền Hán, đã nghe lời tâu của Đổng Trọng Thư tôn Nho giáo làm quốc giáo, lấy tư tưởng luân lý, chính trị của Nho giáo để làm tiêu chuẩn cho mọi sinh hoạt hàng ngày. Vì quan điểm của Nho giáo lấy việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ làm gốc. Trong đời Tiền Hán, Nho giáo rất phát triển, nhưng tới cuối đời Hậu Hán, thế lực đã sút kém. Vì lúc này, chính trị trong nước rối loạn, trật tự xã hội bất an, hơn nữa lại có những tư tưởng mới, tức tư tưởng Lão Trang ra đời.
Thủy tổ của Đạo giáo là Lão Tử, nhưng Đạo giáo trở thành tôn giáo kể từ Hậu Hán, do Trương Đạo Lăng lập ra “Thiên Sư Đạo” và Trương Giác lập ra “Thái Bình Đạo”.
Trương Đạo Lăng, người Bái Quốc (tỉnh Giang Tô), tương truyền là cháu bảy đời của Trương Lương. Khi còn trẻ ông chuyên về sách Đại học của Nho học nhưng tới tuổi già ông học về Tiên thuật của Lão giáo. Trong thời vua Thuận Đế đời Hậu Hán, ông tập hợp đồ chúng tại núi Hạc Minh, nương vào sách Lão Tử, soạn ra sách Đạo Thư gồm 24 thiên, để làm cơ sở căn bản cho giáo lý Thiên Sư Đạo. Giáo nghĩa của đạo này gồm có phần tư tưởng của Lão Tử và phụ họa thêm cách bói toán, chú thuật, tập tục cổ truyền của dân gian, nhưng lấy phép phù thủy chữa bệnh làm mục đích chính. Vì mỗi khi chữa bệnh được phần lễ tạ năm đấu gạo, nên người đời thường gọi đạo này là đạo “Ngũ Đấu Mễ”. Trương Đạo Lăng nhờ vào những phần lễ tạ đó, lập ra nhà Nghĩa Xá để giúp đỡ những người nghèo khổ, vì thế mà người theo đạo của ông tới mấy mươi vạn người.
Còn Trương Giác viết ra sách Thái Bình Kinh để làm giáo điều căn bản cho “Thái Bình Đạo”, cũng nương theo tư tưởng của Lão Tử. Những người theo đạo này cũng khá đông, nhưng mục đích của đạo này cốt để đả đảo Hán triều, nên đời gọi là “Giặc Hoàng Cân”. Đạo này chỉ xuất hiện một thời gian ngắn rồi tan rã. Còn “Thiên Sư Đạo” của Trương Đạo Lăng, vì có hệ thống truyền thừa nên mỗi ngày một thịnh đạt.
Trước khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, Trung Quốc đã có Nho giáo và Đạo giáo, nên sau khi Phật giáo truyền tới, lẽ tất nhiên phải có xung đột trên phương diện tư tưởng và tín ngưỡng.
Theo truyền thuyết: “Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10, đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán. Ngay sau đó, giáo đồ của Đạo giáo sinh lòng ghen ghét, liền tâu vua để thi phép đấu sức với Phật giáo, nếu Phật giáo thua thì sẽ bị trục xuất. Cuộc tranh luận đấu sức này được tổ chức vào ngày 15 tháng giêng năm Vĩnh Bình thứ 14, ở phía cửa Nam chùa Bạch Mã. Về phía Đạo giáo, trước hết có Đỗ Thiện Tín ở núi Nam Nhạc, rồi đến các đạo sĩ của 18 núi thuộc Ngũ Nhạc, gồm 690 người đều tụ họp, mục đích để đả phá Phật giáo. Về phía Phật giáo có Ngài Ca Diếp Ma Đằng, Trúc Pháp Lan, nhưng không có một ai ở Đạo giáo thắng nổi, nên đạo sĩ hoặc có người tự tử, hoặc có người xuống tóc xin theo làm đệ tử Phật giáo. Ngoài ra còn có quan Hữu Tư là Vương Tuân và các thiện nam tín nữ hơn ngàn người đến chứng kiến, trong số đó có 230 người xin đầu Phật xuất gia, và xây cất 7 ngôi chùa Tăng và 3 ngôi chùa Ni”.
Trên đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng có thể cũng đã có một sự xung đột nhỏ xảy ra, mãi sau đời nhà Tấn, tư tưởng của đôi bên ngày một xung đột rõ rệt. Vào đời nhà Ngô, vua Ngô Tôn Hạo có sai Trương Dực tranh luận cùng với Khương Tăng Hội, nhưng Trương Dực phải khuất phục trước tài biện luận của Khương Tăng Hội.
Đời Tây Tấn, có chức Sái Tửu của Đạo giáo là Vương Phù, cũng tranh luận với Phật giáo là Ngài Bạch Viễn, kết cục Vương Phù bị thua. Sau Vương Phù soạn sách Lão Tử Hóa Hồ Kinh để đối kháng lại Phật giáo. Bộ sách này đã bị thất lạc, chỉ còn sót lại một chút ít, nên người đời sau không được biết nội dung đầy đủ của sách. Nhưng đại khái sách này thuật lại việc Lão Tử đã tới nước Ấn Độ giáo hóa đức Thích Ca, hoặc đức Thích Ca là hóa thân của Lão Tử, nên tên sách cũng gọi là Lão Tử Hóa Hồ Kinh.
Nhưng từ sau đời Đông Tấn, Đạo giáo và Phật giáo trở nên dung hòa. Đạo giáo thì nhận lý thuyết “Không” trong Bát Nhã Kinh cũng giống như thuyết “Hư Vô” của Lão Tử; Phật giáo cũng dùng tư tưởng của Đạo giáo để lý giải Phật giáo. Chỉ có Nho giáo và Phật giáo, lập trường của đôi bên lại khác hẳn nhau về cả lý thuyết lẫn hành động, nhưng sau dần dần cũng đi tới chỗ dung hòa, nên nhà Nho cũng nhiều người quay sang nghiên cứu Phật giáo.