VBốn bộ kinh điển trọng yếu được phiên dịch trong thời đại Đông Tấn

Trong thời đại Đông Tấn, kể cả 16 nước thuộc Ngũ Hồ, có bốn bộ kinh trọng yếu đã được phiên dịch. Một là Kinh Bát Nhã, các bộ luận liên quan tới Bát Nhã, như Đại Trí Độ LuậnTrung Luận do Ngài La Thập dịch; hai là Kinh Pháp Hoa cũng do Ngài La Thập dịch; ba là Kinh Đại Bát Niết Bàn do Ngài Đàm Vô Sấm dịch; bốn là Kinh Hoa Nghiêm do Ngài Giác Hiển dịch. Kinh Bát Nhã là bộ kinh điển căn bản của Đại thừa Không Tông. Kinh Bát Nhã tuy mãi đến đời Ngài Huyền Trang mới hoàn thành hoàn toàn, nhưng những bộ phận chủ yếu của kinh này đều đã được Ngài La Thập dịch, như Đại Phẩm Bát NhãTiểu Phẩm Bát Nhã. Khảo sát về lịch sử phiên dịch Kinh Bát Nhã, có thể liệt kê theo thứ tự như sau:

1. Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 10 quyển, do Ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

2. Phóng Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 20 quyển, do Ngài Vô La Xoa và Trúc Thục Lan đời Tây Tấn dịch.

3. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 27 quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch.

4. Đạo Hạnh Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 10 quyển, do Chi Lâu Ca Sấm đời Hậu Hán dịch.

5. Đạo Hạnh Kinh, 1 quyển, do Trúc Phật Sóc đời Hậu Hán dịch.

6. Tân Đạo Hạnh Kinh, 10 quyển, do Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

7. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Sao Kinh, 5 quyển, do Đàm Ma Ty và Trúc Phật đời Phù Tần dịch.

8. Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 10 quyển, do Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch.

9. Thăng Thiên Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 7 quyển, do Nguyệt Bà Thủ Na đời Trần dịch.

10. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 1 quyển, do Tăng Già Bà La đời Lương dịch.

11. Đại Bát Nhã Kinh, 600 quyển, do Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang đời Đường dịch.

12. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 1 quyển, do La Thập đời Diêu Tần dịch.

13. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 1 quyển, do Bồ Đề Lưu Chi đời Bắc Ngụy dịch.

14. Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, 1 quyển, do Nghĩa Tịnh đời Đường dịch.

(Trong đó, những bộ số 5, 6 đã thất lạc)

Từ biểu đồ trên, mà ta biết được Đại Phẩm Bát NhãTiểu Phẩm Bát Nhã, đều do Ngài La Thập đã dịch trong thời đại Đông Tấn. Ngài Long Thọ và Đề Bà ở Ấn Độ đã phát huy được cái lý “Nhất thiết giai không” trong Kinh Bát Nhã, Ngài La Thập lại kế thừa được hệ thống giáo học để truyền bá ở Trung Quốc, và các bộ luận về Đại thừa của hai Ngài cũng đều được Ngài La Thập dịch ra chữ Hán như Đại Trí Độ Luận, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận v.v.

Kinh Bát Nhã là khai quang trí tuệ, trừ bỏ mê mờ, Kinh Pháp Hoa chỉ rõ pháp cứu kính. So với Kinh Bát Nhã thì Kinh Pháp Hoa chiếm địa vị quan trọng hơn, vì Kinh Pháp Hoa có ảnh hưởng rất lớn về giáo học Phật giáo Trung Quốc. Kinh Pháp Hoa tuy có nhiều bản dịch khác nhau, nhưng chỉ có bản dịch của Ngài La Thập là lưu loát, hoàn bị hơn cả. Lịch sử các nhà phiên dịch kinh Pháp Hoa như sau:

1. Pháp Hoa Tam Muội Kinh, 6 quyển, Chi Cương Lương Tiếp đời Ngô dịch.

2. Tất Đàm Phân Đà Lợi Kinh, 6 quyển, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

3. Chính Pháp Hoa Kinh, 10 quyển, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

4. Tất Đàm Phân Đà Lợi Kinh, 1 quyển, được dịch vào đời Tây Tấn, không rõ dịch giả.

5. Phương Đẳng Pháp Hoa Kinh, 5 quyển, Chi Đạo Căn đời Đông Tấn dịch.

6. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, La Thập đời Diêu Tần dịch (Ngài La Thập lúc đầu chỉ dịch có 27 phẩm, đời sau thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa thành 28 phẩm).

7. Thiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 quyển, Xà Na Quật Đa đời Tùy dịch.

(Trong đó những bộ số 1, 2, 5, 6 đã thất lạc)

Kinh Đại Niết Bàn là bộ kinh nói về trạng thái lúc Đức Phật nhập diệt, và ghi chép lại những lời giáo huấn cuối cùng của Ngài. Kinh này có chia ra Tiểu thừa Niết bàn Đại thừa Niết bàn. Tiểu thừa Niết bàn chỉ ghi chép về sự thực khi Đức Phật nhập diệt, còn Đại thừa Niết bàn thì nói rõ về “Pháp thân thường trụ”. Trong 40 quyển kinh Đại Bát Niết Bàn do Ngài Đàm Vô Sấm dịch nội dung chủ yếu giải thích tư tưởng “Pháp thân thường trụ”, tức cái chân thân bất diệt của Đức Phật. Vì vậy các học giả của Niết bàn tông Trung Quốc, gọi là “Niết bàn thường trụ giáo”. Về lịch sử truyền dịch kinh Niết bàn theo như biểu sau:

1. Bồ Tát Nê Hoàn Kinh, 2 quyển, Chi Lâu Ca Sấm đời Hậu Hán dịch.

2. Đại Bát Nê Hoàn Kinh, 2 quyển, Chi Khiêm đời Ngô dịch.

3. Phương Đẳng Bát Nê Hoàn Kinh, 2 quyển, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

4. Đại Bát Nê Hoàn Kinh, 6 quyển, Pháp Hiển và Giác Hiền đời Đông Tấn dịch.

5. Phật Di Giáo Kinh, 1 quyển, Cưu Ma La Thập đời Diêu Tần dịch.

6. Đại Bát Niết Bàn Kinh, 40 quyển, Đàm Vô Sấm đời Bắc Lương dịch (thuộc Đại thừa Niết bàn)

7. Bát Nê Hoàn Kinh, 20 quyển, Trí Mãnh đời Lưu Tống dịch.

8. Tứ Đồng Tử Tam Muội Kinh, 3 quyển. Xà Na Quật Đa, đời Tùy dịch.

9. Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu Phần, 2 quyển, Nhã Na Bát Đa dịch.

(Trong đó những bộ số 1 và 7 đã thất lạc)

Cuối cùng là Kinh Hoa Nghiêm, tên đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, một bộ kinh rất quan trọng trong Phật giáo. Nguyên văn Phạn bản Kinh Hoa Nghiêm, do Ngài Pháp Lĩnh thỉnh ở nước Vu Điền về, gồm có 36.000 bài kệ, Ngài Giác Hiền dựa vào Phạn bản đó mà dịch thành 60 quyển, gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm. Bộ kinh này sau khi đã được dịch ra, có ảnh hưởng rất lớn đối với tư tưởng giáo học Phật giáo Trung Quốc. Tới đời nhà Đường lại có Ngài Thực Xoa Nan Đà dịch bộ Kinh Hoa Nghiêm 80 quyển, gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm. Bộ này dịch cũng công phu hoàn bị, nhưng sức ảnh hưởng không bằng Lục Thập Hoa Nghiêm. Đó là vì nguyên văn Phạn bản khác nhau, và dòng phái cũng khác nhau. Ngoài hai bộ kể trên lại có bộ Hoa Nghiêm Kinh 40 quyển, do Ngài Bát Nhã Tam Tạng đời Đường dịch, gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm. Bộ này giải thích rõ phẩm Nhập Pháp Giới của hai bộ trên, nên còn có tên là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư Nghì Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm.

Đại thể bốn bộ kinh trọng yếu do Ngài Đàm Vô Sấm, Ngài Cưu Ma La Thập và Ngài Giác Hiển dịch như trên đã lược thuật, có ảnh hưởng rất quan trọng tới Phật giáo Trung Quốc. Vì đó là những tư tưởng căn bản để phát triển cho giáo nghĩa của các tông giáo đời sau.