Người bắt đầu truyền bá tư tưởng “Thiền quán” ở Trung Quốc là Ngài An Thế Cao đời Hậu Hán. Người thừa kế có Ngài Trúc Pháp Hộ đời Đông Tấn, rồi đến các Ngài Đạo An, La Thập, Tuệ Viễn và Giác Hiền đời Đông Tấn, cuối thời đại nhà Đông Tấn, phép tu “Thiền quán” rất thịnh hành.
Danh từ Thiền quán cũng như là Thiền định, nghĩa là dùng những phép quán “Sổ Tức” cho đến “Bất Định Quán”, “Từ Bi Quán” và “Nhân Duyên Quán” v.v. Căn cứ vào Kinh Lục ghi chép những kinh điển về “Thiền quán” đã dịch thuật tới cuối đời Đông Tấn có những bộ như sau:
Đại An Ban Thủ Ý Kinh, 2 quyển, Ngài An Thế Cao đời Hậu Hán dịch (An Ban có nghĩa là sổ tức, tức là sổ tức quán).
Thiền Hạnh Pháp Tưởng, 1 quyển, An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.
Thiền Hạnh Tam Thập Thất Phẩm Kinh, 1 quyển, An Thế Cao dịch.
Thiền Yếu Ha Dục Kinh, 1 quyển (không có tên người dịch) đời Hậu Hán.
Pháp Quán Kinh, 1 quyển, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.
Tu Hành Đạo Địa Kinh, 7 quyển, Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.
Đạt Ma Đa La Thiền Kinh, 2 quyển, Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiển) đời Đông Tấn dịch.
Nội Thân Quán Chương Cú Kinh, 1 quyển (mất tên người dịch), đời Đông Tấn.
Thiền Bí Yếu Pháp Kinh, 3 quyển, La Thập đời Diêu Tần dịch.
Tọa Thiền Kinh Tam Muội, 2 quyển, La Thập đời Diêu Tần dịch.
Thiền Pháp Yếu Giải, 2 quyển, La Thập đời Diêu Tần dịch.
Tư Duy Lược Yếu Pháp, 1 quyển, La Thập đời Diêu Tần dịch.
Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp, 2 quyển, Thư Cừ Kinh Thanh đời Hậu Lương dịch.
Theo biểu kê trên thì Đại An Ban, Thiền Hạnh Pháp Tưởng, Tam Thập Thất Phẩm, Nội Thân Quán, Trị Thiền Bệnh Quán, thuộc về kinh điển của Tiểu thừa thiền quán, còn các bộ môn khác thuộc về Đại thừa thiền quán. Nhưng Tiểu thừa hay Đại thừa là do sự phân chia của người đời sau, còn đương thời vẫn chưa có sự phân chia này mà chỉ gọi là “Thiền quán”. Về nội dung trong các bộ kể trên, bộ Tư Duy Lược Yếu Pháp của Ngài La Thập dịch, là bộ kinh để chỉ dẫn cho người học về “Thiền quán” ở bước đầu. Nội dung trong bộ đó chia ra 10 phép quán tưởng như sau:
1. Phép quán Tứ vô lượng: phép quán “Tứ vô lượng tâm” là Từ, Bi, Hỷ, Xả đem lòng bình đẳng cứu độ chúng sinh.
2. Bất tịnh quán: phép quán tưởng thân thể của con người là nhơ nhớp xấu xa, để đoạn trừ cái mối tham, sân, si.
3. Bạch cốt quán: phép quán tưởng thân mình cũng như thân mọi người khác, ngoài da thịt, huyết mạch ra, đều chỉ còn những lớp xương trắng gắn liền với nhau. Tu phép quán này để chứng lấy sơ thiền.
4. Phật tam muội quán: phép quán tượng Phật, trước hết quán tượng Phật, phải quán từ đầu tới chân, lại quán từ chân tới đầu, quán tới khi mình mở mắt cũng như khi nhắm mắt, đều hình dung được tượng Phật ở trước mắt, phép quán này cốt để khỏi tán loạn ở bước đầu.
5. Sinh thân quán: quán về hiện thân của Đức Phật, như quán về thân Đức Phật từ lúc ngồi tu dưới gốc cây Bồ đề, cho tới lúc thành đạo, nơi Đức Phật thuyết pháp đầu tiên ở Lộc Dã uyển v.v.
6. Pháp thân quán: quán những đức tính vô hình của Phật như “Thập Lực”, “Tứ Vô úy” v.v.
7. Thập phương chư Phật quán: quán có các vị Phật ở hết thảy mười phương, phóng quang thuyết pháp.
8. Vô Lượng Thọ Phật quán: quán trong hư không, tự nhiên phóng ra hào quang rực rỡ, trong hào quang có Đức Phật Vô Lượng Thọ, thân vàng chói lọi, ngồi kết già, hướng về phía Tây.
9. Chư pháp thực tướng quán: quán hết thảy mọi pháp đều từ nhân duyên mà sinh, nên mọi pháp đều là không, đều là sinh diệt, còn thực thể của mọi pháp thì không có sinh và cũng không có diệt.
10. Pháp Hoa tam muội quán: quán Đức Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo Như Lai, cùng ngồi ở trong ngọn tháp Thất bảo, biến hiện ra chư Hóa thân Phật ở khắp mười phương để nói Kinh Pháp Hoa.
Tư tưởng “Thiền quán” sở dĩ được phát triển mạnh mẽ ở cuối đời Đông Tấn là do sự tận lực truyền bá của các Ngài La Thập, Giác Hiển và Tuệ Viễn. Vì Ngài Giác Hiển tới Trung Quốc, mục đích chính là truyền bá về “Thiền quán”, và Ngài Tuệ Viễn, tuy chủ trương cả ba môn học là Giới, Định, Tuệ, nhưng lại lấy “Thiền Định” làm môn học trung tâm.