Phật giáo đời nhà Tống: Các đời thuộc Nam triều, đời nào cũng đóng đô ở Kiến Khang, và đời vua nào cũng quan tâm đến Phật giáo. Tuy Cao Tổ Võ Đế nhà Tống có lệnh đào thải Tăng Ni, nhưng đời Văn Đế lại hết sức ủng hộ Phật giáo. Vua Văn Đế thường học đạo Phật ở Ngài Đạo Sinh và Cầu Na Bạt Ma, và mời Sa môn Tuệ Lâm tham gia công việc triều chính, nên đời thường gọi Tuệ Lâm là Tể tướng áo đen. Trong đời này, các bậc Tăng dịch kinh từ Tây phương tới như Phật Đà Thập, Cương Lương Da Xá, Cầu Na Bạt Ma và Cầu Na Bạt Đà La v.v.
Phật Đà Thập (Buddhajva): Ngài người nước Kế Tân, tới Trung Quốc vào năm đầu niên hiệu Cảnh Bình (423) đời Tống, dịch ra bộ Ngũ Phần Luật (30 quyển). Như vậy về Luật Tạng, trước đây đã có Thập Tụng Luật” (60 quyển) của Ngài Phất Nhã Đa La dịch, Tứ Phần Luật (60 quyển) của Ngài Phật Đà Da Xá dịch, và Ma Ha Tăng Kỳ Luật (40 quyển) của Ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch. Như vậy, Luật tạng hầu hết đã được dịch ra hoàn toàn.
Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas): Ngài người Tây Vực, sau khi tới Trung Quốc, dịch ra bộ Quán Vô Lượng Thọ Kinh (1 quyển). Kinh này có ảnh hưởng rất lớn tới Tịnh độ giáo.
Cầu Na Bạt Ma (Gunavarman), (377 - 431): Ngài người nước Kế Tân, đi đường biển tới Quảng Châu, rồi từ Quảng Châu tới Kiến Khang vào năm thứ 8 niên hiệu Nguyên Gia (431) Ngài tới đó mới được 9 tháng rồi tịch. Tuy ở Kiến Khang chỉ trong thời gian ngắn nhưng Ngài đã dịch được những bộ như Bồ Tát Thiện Giới Kinh, Tứ Phần Tỳ Kheo Ni Yết Ma Pháp. Sau khi bộ Tỳ Kheo Ni Yết Ma Pháp của Ngài dịch ra, thì giáo đoàn Ni Tăng của Trung Quốc mới dựa vào đó mà biết cách tác pháp yết ma thọ giới.
Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra), (394 - 468): Ngài người Trung Thiên Trúc, cũng đi đường biển tới Quảng Châu, rồi tới Kiến Khang, niên hiệu Nguyên Gia năm thứ 12 (435), được vua Văn Đế rất trọng đãi, vua thỉnh Ngài ở chùa Kỳ Hoàn để phiên dịch kinh điển. Theo Khai Nguyên Lục, Ngài dịch được 52 bộ, 134 quyển, như Tạp A Hàm Kinh (50 quyển), Đại Pháp Cổ Kinh (2 quyền), Lăng Già A Bạt Đà La Bảo Kinh (4 quyển), Thắng Man Kinh và Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh v.v.
Trong đời nhà Tống, ngoài các vị dịch kinh kể trên, còn có Ngài Tăng Già Bạt Ma người Thiên Trúc, Đàm Ma Mật Đa người nước Kế Tân, Công Đức Trực người Tây Vực là các vị Tăng ngoại quốc; và Trí Nghiêm, Bảo Vân, Tuệ Nghiêm, Tuệ Giản là các vị Tăng Trung Quốc, ngoài ra, còn có cư sĩ Thư Cừ Kinh Thanh, cũng đều chuyên về sự nghiệp phiên dịch kinh điển và truyền bá Phật giáo đương thời.
Phật giáo đời nhà Tề: Vua Cao Đế và Võ Đế nhà Tề cũng hết sức bảo hộ Phật giáo. Trong năm đầu niên hiệu Kiến Nguyên (479), vua Cao Đế có nghe Tăng Viễn giảng kinh Duy Ma tại chùa Trang Nghiêm; Võ Đế thì mời Tăng Tuệ và Huyền Xướng tham gia công việc quốc chính, nên đời thường gọi là hai bậc anh kiệt áo đen. Đặc biệt, con vua Võ Đế là thái tử Văn Huệ nhiệt tâm việc học Phật, thường tới các bậc cao tăng học hỏi về giáo lý.
Trong đời nhà Tề, các bậc Tăng từ Tây phương tới dịch kinh, có Ngài Đàm Ma Già Đà Da Xá (Dharmagàtayasas) người Thiên Trúc, dịch bộ Vô Lượng Thọ Kinh (1 quyển). Tăng Già Bạt Đà La (Sanghabhadra) người Thiên Trúc, dịch bộ Thiện Kiến Tỳ Bà Sa (18 quyển). Câu Na Tỳ Địa (Gunavidhi) người Trung Thiên Trúc, dịch bộ Bách Dụ Kinh (10 quyển), Thập Nhị Nhân Duyên Kinh (1 quyển). Đạt Ma Ma Đề người Tây Vực, dịch phẩm Đề Bà Đạt Đa của Kinh Pháp Hoa, và Đàm Cảnh dịch bộ Ma Ha Ma Da Kinh.
Phật giáo đời nhà Lương: Trong đời nhà Lương, Phật giáo được thịnh hành nhất ở Nam triều. Vì ngoại hộ có Lương Võ Đế thâm tín Phật giáo, bên Tăng già có ba đại Pháp sư là Pháp Vân chùa Quang Trạch, Trí Tạng chùa Khai Thiện, Tăng Mân chùa Trang Nghiêm xuất hiện. Lương Võ Đế là ông vua tin Phật giáo đứng thứ nhất trong lịch đại Hoàng đế ở Trung Quốc. Trong khoảng 48 năm trị vì, nhà vua đem vương quyền và Phật giáo dung hòa thành một mối.
Lương Võ Đế, lúc đầu theo Nho giáo và Đạo giáo, nên không quan tâm tới Phật giáo, nhưng sau Ngài biết đến Phật giáo thì lại nhất tâm quy y. Giữa năm thứ 3 niên hiệu Thiên Giám (504), nhân dịp lễ Phật đản mồng 8 tháng 4, vua đã cử hành đại lễ “Xả đạo phụng Phật” tại Trùng Vân điện, và còn ra lệnh cho các công khanh, bách quan bỏ Đạo giáo quy y Phật giáo. Tới niên hiệu Thiên Giám năm thứ 10 (511), vua tự soạn ra bài văn Đoạn Tửu Nhục (bỏ uống rượu ăn thịt) để quyết tâm tu trì. Lại niên hiệu Thiên Giám năm thứ 16 (517), vua hạ sắc lệnh cấm nhân dân không được cúng tế quỷ thần bằng rượu thịt, và bắt thay thế bằng hoa quả, năm Thiên Giám thứ 18 (519), nhân ngày mồng 8 tháng 4 vua lại tự phát tâm thọ giới Bồ tát ở Ngài Tuệ Ước tại chùa Thảo Đường, ngay sau đó, thì các công khanh sĩ thứ noi gương Ngài cũng thọ giới có hàng mấy vạn người. Vua còn ra lệnh dựng chùa Đồng Thái, Đại Ái Kính và nhiều chùa lớn ở các nơi, và mở rất nhiều pháp hội như “Vô Giá Đại Hội”, “Bình Đẳng Pháp Hội”, “Cứu khổ Trai Đàn”, “Đại Pháp Hội” v.v. Để thực hiện hạnh tu Bồ tát, vua đã ba lần xả thân vào chùa nhổ cỏ, quét dọn, theo việc như chư tăng, các quần thần phải bỏ tiền ra để chuộc Ngài về cung.
Vua không những chỉ chú trọng vào việc phúc thiện mà việc nghiên cứu giáo lý Phật giáo, vua cũng thấu hiểu được tới chỗ cao siêu. Đặc biệt về nghĩa lý Kinh Bát Nhã, vua hiểu rất thấu đáo, theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, vua đã chú sớ bộ Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Tư Chú Kinh (50 quyển). Vua thường tự giảng Kinh Bát Nhã tại chùa Đồng Thái, nhưng đặc biệt ở niên hiệu Đại Thông năm thứ 5 (533), vua khai giảng Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật tại chùa Đồng Thái, có 698 các quan đình thần văn võ và hàng mấy vạn người đủ các hàng Tăng Ni, đạo sĩ, thứ dân, cũng đều tụ tập để nghe, và còn có cả sứ thần của nước Vu Điền, Ba Tư cũng tới tham dự. Đương thời, các bậc cao Tăng lại là thân thích của vua, như Tăng Mân, Pháp Sủng, Pháp Vân, Tuệ Siêu v.v., thường lui tới chốn cung đình để giúp vua về việc nghiên cứu Phật giáo.
Trong thời đại này, ba bậc đại Pháp sư là Trí Tạng, Pháp Vân và Tăng Mân đều là những học giả của Niết Bàn và Thành Thực. Vì thế, nên Ngài Trí Tạng đã soạn được bộ Thành Thực Luận Sớ (14 quyển), và Thành Thực Đại Nghĩa Ký v.v. Ngài Pháp Vân thì sở trường về Kinh Pháp Hoa, lại hiểu thấu đáo nghĩa luận Thành Thực, liền đem so sánh cả hai bên mà soạn thành bộ Nhị Đế Chương, Ngài Tăng Mân thì giảng luận Thành Thực hơn 50 lần, Kinh Niết Bàn 30 hồi, Kinh Đại Phẩm Bát Nhã 40 lượt. Ngoài ra, Ngài Tăng Hựu đã soạn bộ Xuất Tam Tạng Ký Tập (15 quyển), Hoằng Minh Tập (14 quyển) và Thích Ca Phổ (45 quyển). Xuất Tam Tạng Ký Tập thì ghi chép những kinh lục đã phiên dịch từ thời tối cổ, rất có giá trị cho việc nghiên cứu. Hoằng Minh Tập ghi chép và tập hợp những bài luận liên quan tới Phật giáo. Thích Ca Phổ ghi chép về gia thế của dòng họ Thích Ca, đều là những bộ sách rất quý trọng cho việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Tăng Sướng là đệ tử Ngài Tăng Hựu, vì ảnh hưởng sự học của thầy, nên đã trước tác những bộ Danh Tăng Truyện, Tỳ Kheo Ni Truyện (4 quyển) và Kinh Luật Dị Tướng (50 quyển). Đương thời nhà sử học Tuệ Cảo lại dựa vào các truyện đó mà soạn thành bộ Cao Tăng Truyện (14 quyển). Bộ này hiện còn, rất cần cho việc nghiên cứu Phật giáo từ thời cổ xưa nhất.
Các vị Tăng dịch kinh: Các vị Tăng dịch kinh trong đời nhà Lương có Ngài Tăng Già Bà La (Sanghapàla), người nước Vu Điền, theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, Ngài dịch được 11 bộ 38 quyển, như Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh (1 quyển), Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh (2 quyển).
Mạn Đà La Tiên (Mandrarisi): Ngài người nước Phù Nam (nước Cao Miên thời cổ đại có tên là Phù Nam), có lẽ Ngài đã từ Ấn Độ qua đó để truyền đạo, rồi tới Trung Quốc. Theo Khai Nguyên Lục, Ngài dịch được những bộ Bảo Vân Kinh (7 quyển), Pháp Giới Thể Tính Vô Phân Biệt Kinh (2 quyển) v.v.
Ba La Mật Đà (Paramàntha), (499 - 569): Trung Quốc dịch là Chân Đế, người nước Ưu Thiền Ni (djayani), Tây Thiên Trúc, dòng dõi Bà la môn, sau xuất gia, thông hiểu tam tạng, đi kinh lịch các nước truyền đạo, không quản mọi vất vả khó khăn, nguy hiểm. Ngài đi đường thủy tới Quảng Châu vào niên hiệu Đại Đồng năm thứ 12 (546) rồi tới Kinh Ấp thuộc tỉnh Giang Tô, được vua Lương Võ Đế rất trọng đãi, nhưng xảy ra loạn Hầu Cảnh, Ngài phải lánh nạn tới Phú Xuân, tỉnh Chiết Giang rồi lại trở về Kiến Khang. Sau khi tới Dự Chương, thuộc tỉnh Giang Tây, và phải lưu lạc nhiều nơi, rồi Ngài định trở về Ấn Độ, nhưng trên đường biển về, không may gặp bão, thuyền lại dạt vào Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông), quan Thứ Sử ở Quảng Châu liền đón Ngài về trụ trì chùa Chế Chỉ để chuyên việc dịch kinh. Năm đầu Đại Kiến (569), Ngài tịch, thọ 71 tuổi.
Trong hơn 20 năm, từ cuối đời nhà Lương tới đầu nhà Trần, tuy gặp nhiều gian nan, nhưng chưa bao giờ Ngài sao lãng việc phiên dịch kinh điển. Theo Khai Nguyên Lục trong đời Lương, Ngài dịch được 11 bộ 24 quyển, và đời Trần dịch 38 bộ, 118 quyển, cộng lại thành 49 bộ, 142 quyển. Những bộ chủ yếu dịch ở đời Lương như: Kim Quang Minh Kinh (7 quyển), Vô Thượng Y Kinh (2 quyển), Thập Thất Địa Luận (3 quyển), Trung Luận (1 quyển), Như Thực Luận (1 quyển), Đại Thừa Khởi Tín Luận (1 quyển) v.v. Những bộ chủ yếu dịch ở đời Trần như: Kim Cương Bát Nhã Kinh (1 quyển), Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (15 quyển), Phật Tính Luận (4 quyển), Duy Thức Luận (1 quyển), Hiển Thức Luận (1 quyển), Chuyển Thức Luận (1 quyển), Tam Vô Tính Luận (2 quyển), Thập Bát Không Luận (1 quyển), A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Thích Luận (22 quyển), Lập Thế A Tỳ Đàm Luận (10 quyển), Tứ Đế Luận (4 quyển), Bộ Chấp Dị Luận (1 quyển) v.v. Đặc biệt những kinh luận do Ngài dịch ra, phần lớn là hệ thống tư tưởng Duy thức học của Ngài Vô Trước, Thế Thân, đưa tư tưởng giáo học Trung Quốc bước sang một giai đoạn mới. Như Nhiếp Đại Thừa Luận, và Khởi Tín Luận của Ngài Mã Minh, là một bộ sách trọng yếu, thuyết minh lý “Chân như duyên khởi” của Phật giáo Đại thừa. Về sự nghiệp dịch kinh của Ngài Chân Đế, cũng như Ngài La Thập, Ngài Huyền Trang, và Ngài Bất Không đời Đường, là bốn bậc Thánh tăng đại phiên dịch của lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Phật giáo đời nhà Trần: Nhà Trần tất cả có 5 đời vua, trị thế trong khoảng 33 năm, đời vua nào cũng ủng hộ Phật giáo. Như vua Võ Đế thì tu sửa lại 700 ngôi chùa ở Kim Lăng đã bị chiến tranh phá hủy, và lập nhiều “Vô giá đại hội”, sắc viết 12 tạng kinh, tạo 100 vạn pho tượng. Tới đời Văn Đế và Tuyên Đế trở về sau cũng làm nhiều công việc tạo tượng, viết kinh, hoặc xả thân cúng dường, noi gương hộ trì Phật pháp của Lương Võ Đế. Trong đời nhà Trần, lại có danh tăng Tuệ Tư hoạt động truyền bá Phật giáo.
Tuệ Tư (515 - 577): Ngài người tỉnh Hà Nam, 15 tuổi đi xuất gia, chuyên đọc tụng kinh Pháp Hoa, tới 20 tuổi gặp Ngài Tuệ Văn ở Bắc Tề, liền ngộ được diệu lý Kinh Pháp Hoa, sau lại đi kinh lịch các châu, học đạo tham vấn. Năm Vĩnh Thánh thứ 13 (554) đời Lương Nguyên Đế, Ngài vào núi Đại Tô ở Quảng Châu (tỉnh Hà Nam), sau lại tới núi Nam Nhạc (tỉnh Hà Nam), Ngài trụ trì ở núi này trong khoảng 10 năm, chuyên về việc tu trì hoằng hóa, tới niên hiệu Đại Kiến năm thứ 9 (577) thì mất, thọ 63 tuổi. Đương thời, đời tôn xưng Ngài là Nam Nhạc Thiền sư. Môn đệ của Ngài rất đông, nhưng trong đó có Trí Khải là người xuất chúng sau lập ra Thiên Thai Tông. Trong các trước tác của Ngài gồm có Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn (4 quyển), Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa (1 quyển), Vô Tranh Tam Muội Pháp Môn (2 quyển), Tùy Tự Ý Tam Muội (1 quyển) và Lập Nguyện Văn v.v., đều là những trước thuật nêu rõ ý chỉ huyền diệu của Kinh Pháp Hoa.