Phật giáo nhà Bắc Ngụy: Đạo Võ Đế của Bắc Ngụy thuộc Bắc triều, đã dựng nước từ thời đại Đông Tấn, và đã từng tranh quyền bá chủ với các nước thuộc Ngũ Hồ, tới thời vua Thái Võ Đế, diệt được Bắc Lương (439), thống nhất phương Bắc, đóng đô ở Bình Thành (Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây). Bắc Ngụy là một nước rất có uy thế, đối lập với nhà Tống ở Nam triều.
Phật giáo ở Bắc Ngụy rất thịnh đạt, nhất là sự phát triển của giáo đoàn Phật giáo, chùa viện có tất cả 30.000 ngôi, Tăng Ni có hơn 200 vạn người, vua Đạo Võ Đế đã thỉnh Sa môn Pháp Quả là người đứng đầu để thống lĩnh và quản hạt giáo đoàn. Đạo Võ Đế và Minh Nguyên Đế đều tin theo Phật giáo, nhưng tới đời vua thứ ba là Thái Võ Đế, vì nghe lời gièm pha của Thôi Hạo và Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi nên đã hạ lệnh phá hủy Phật giáo.
Võ Đế Bắc Ngụy phá Phật: Lúc đầu, Thái Võ Đế cũng như Tiên đế, cũng quan tâm tới Phật giáo. Như trong ngày Phật đản mồng 8 tháng 4, vua cũng đã dâng hoa kính lễ, nhưng sau khi vua tin dùng quan Tư Đồ là Thôi Hạo và Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi thì vua dần dần lạnh nhạt với Phật giáo, tin theo Đạo giáo. Vì Thôi Hạo là người có hoài bão lấy Nho giáo làm trung tâm văn hóa, và Đạo sĩ Khấu Khiêm Chi là người tận lực hoằng dương Đạo giáo, nên cả hai đều có ý đồ tiêu diệt Phật giáo. Nhân lúc ở tỉnh Thiểm Tây có Cái Ngộ loạn, vua thân chinh đi đánh dẹp, chợt tới một ngôi chùa ở Tràng An, phát hiện trong chùa có đồ vũ khí, vua nghi ngờ chùa đó thông mưu với Cái Ngộ, lại thêm vào lời gièm pha của Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi, vua liền hạ chiếu chỉ phá bỏ Phật giáo vào giữa năm thứ 7 niên hiệu Thái Bình Chân Quân (446). Sau khi sắc lệnh ban bố, nhiều chùa tháp bị phá hoặc làm nơi ở cho công khanh, Tăng Ni phải hoàn tục hoặc ẩn lánh nơi núi rừng, hoặc trốn đi nước khác. Thái tử Hoảng vì tin Phật giáo, đã mấy lần can vua nhưng không hiệu quả, Thái tử liền bí mật thông báo việc đó cho các Tăng Ni xa gần, nên những kinh điển và bảo vật của Phật giáo một phần lớn đã được mang giấu cất trong rừng núi hang đá. Lịch sử Phật giáo Trung Quốc gọi lần phá Phật này là pháp nạn lần thứ nhất trong “Tam Võ Nhất Tông pháp nạn”, Tam Võ là Võ Đế Bắc Ngụy, Võ Đế Bắc Chu và Võ Tông đời Đường, Nhất Tông là Thế Tông đời Hậu Chu. Phật giáo Trung Quốc tổng cộng gặp phải bốn lần pháp nạn.
Thái Võ Đế mất, con là Văn Thành Đế nối ngôi, lại lập tức hạ chiếu chỉ phục hưng Phật giáo. Trong khoảng 6 năm phế Phật, Phật giáo suy tàn, hầu như tuyệt diệt, nhưng sau khi chiếu chỉ phục hưng Phật giáo ban bố, thì các bậc cao tăng trốn ở trong rừng núi lại tiếp tục ra để hoằng đạo. Vua theo lời tâu thỉnh của Sa môn Đàm Diệu, nên khởi công khai tạc động Vân Cương, để sám hối lỗi cho tiên đế, và xây cất cây tháp 7 tầng tại chùa Vĩnh Ninh; đúc tượng đức Thích Ca đứng, thờ tại chùa Thiên Cung, phải dùng tới 10 vạn cân đồng, và 600 cân vàng nuột. Sau tới đời Hiếu Văn Đế cũng ủng hộ Phật giáo, vua hạ chiếu cấm nhân dân không được dùng muông sinh để cúng tế, học đạo Phật ở Sa môn Đạo Đăng và Tăng Uyên. Khi dời kinh đô về Lạc Dương, vua lại hạ lệnh khai tạc thêm một Đại Phật Động ở Long Môn. Kế ngôi là Tuyên Võ Đế cũng ham thích nghiên cứu đạo Phật, thường giảng Kinh Duy Ma cho các đình thần nghe.
Vào đời Bắc Ngụy, các vị tăng từ Tây Vực và Ấn Độ tới có hàng mấy ngàn người. Trong đó có mấy vị phiên dịch kinh điển như Cát Ca Dạ, Bồ Đề Lưu Chi và Đàm Diệu người Trung Quốc v.v.
Cát Ca Dạ: Ngài người Tây Vực cùng với Thích Đàm Diệu dịch bộ Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (6 quyển).
Thích Đàm Diệu: Người Trung Quốc, xuất gia từ thuở nhỏ, một trong những vị có công phục hưng Phật giáo sau thời kỳ phế Phật, Ngài là người khai sáng động Vân Cương. Theo Khai Nguyên Lục, Ngài dịch được bộ Phó Pháp Tạng Truyện (4 quyển).
Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruci): Ngài người Bắc Thiên Trúc, tới Lạc Dương vào năm đầu niên hiệu Vĩnh Bình (508) đời Tuyên Võ Đế Bắc Ngụy. Theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, những kinh điển do Ngài dịch ra gồm có 38 bộ, 127 quyển, những bộ chủ yếu như: Thập Địa Kinh Luận (12 quyển), Phật Danh Kinh (12 quyển), Nhập Lăng Già Kinh (10 quyển), Vô Lượng Thọ Kinh Luận (1 quyển) v.v., bộ Thập Địa Luận sau trở thành Địa Luận tông.
Lặc Na Ma Đề (Ratnamari): Ngài người Trung Thiên Trúc, cũng tới Lạc Dương với Ngài Bồ Đề Lưu Chi. Theo Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, Ngài dịch được 6 bộ 24 quyển, bộ chủ yếu là Cứu Kính Nhất Thừa Bảo Tính Luận (4 quyển) và Thập Địa Kinh Luận (2 quyển).
Phật Đà Phiến Đa (Buqghasàna): Ngài người Bắc Thiên Trúc, cũng tới Trung Quốc cùng với thời kỳ Ngài Bồ Đề Lưu Chi. Ngài cùng với Ngài Bồ Đề Lưu Chi, Lặc Na Ma Đề, dịch bộ Thập Địa Luận (12 quyển), và Ngài cùng với Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch bộ Nhiếp Đại Thừa Luận (2 quyển).
Bát Nhã Lưu Chi (Prajnãruci): Ngài người Nam Thiên Trúc, tới Lạc Dương vào năm đầu niên hiệu Hy Bình (516) đời Hiếu Minh Đế. Theo Tục Cao Tăng Truyện và Lịch Đại Tam Bảo Kỷ, Ngài dịch được 14 bộ, 85 quyển như Chính Pháp Niệm Xứ Kinh (70 quyển), Giải Thoát Giới Bản (1 quyển), Hối Tránh Luận (1 quyển), Duy Thức Vô Cảnh Giới Luận (1 quyển) v.v.
Ngoài ra, trong thời Bắc Ngụy còn có Tôn Văn và Huệ Sinh, đều “nhập Trúc cầu Pháp” và thỉnh được khá nhiều kinh luận đem về nước.
Phật giáo đời Đông Ngụy, Tây Ngụy và Bắc Tề: Bắc Ngụy sau khi phân liệt ra Đông Ngụy và Tây Ngụy, Đông Ngụy thì đóng đô ở Thành Nghiệp (Bành Đức, tỉnh Hà Nam); Tây Ngụy đóng đô ở Tràng An, đều trị vì trong khoảng hơn 20 năm. Các đời vua của hai triều cũng đều ủng hộ Phật giáo. Nước kế tiếp Đông Ngụy là Bắc Tề. Văn Tuyên Đế của Bắc Tề rất hâm mộ Phật giáo, và tận lực làm cho Phật giáo hưng thịnh, vua xây dựng nhiều thiền viện ở các châu, huyện, và học đạo Phật ở Sa môn Pháp Thượng và Tăng Trù, tôn hai vị đó là Quốc sư. Thuế khóa trong nước, vua để ra 1/3 dùng vào việc phụng sự Tam bảo. Đương thời tự viện có 40.000 ngôi, Tăng Ni 3.000.000 người.
Trong thời đại này có những danh Tăng đáng chú ý là Đàm Loan, Tuệ Quang, Pháp Thượng v.v. Và từ Nam Thiên Trúc tới có Ngài Bồ Đề Đạt Ma.
Đàm Loan (476 - 542): Ngài người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây, sau khi đi xuất gia, nhiệt tâm nghiên cứu về “Tứ Luận”. Nhân khi đọc tới Kinh Đại Tập, liền quyết tâm chú giải nhưng sự nghiệp đó mới nửa chừng thì phát bệnh. Vì mục đích để chữa bệnh và tìm thuốc trường sinh nên Ngài tìm tới Đạo sĩ Đạo Hoằng Cảnh học phép tiên thuật, và được Hoằng Cảnh trao cho 10 cuốn Tiên kinh, rồi Ngài trở về phương Bắc, đi tới thành Lạc Dương, gặp Ngài Bồ Đề Lưu Chi, được Ngài trao cho kinh điển Tịnh độ. Ngài liền hủy bỏ Tiên kinh, chuyên tu theo pháp môn Tịnh độ, quán triệt được thâm nghĩa của pháp môn niệm Phật. Ngài đã trước tác những bộ Vãng Sinh Luận Chú và Tán A Di Đà Phật Kệ v.v. Đời thường tôn xưng ngài là Đàm Loan Bồ Tát. Ngài là người xây nền đắp móng cho Tịnh độ tông đời Đường.
Tuệ Quang (486 - 537): Ngài người Định Châu (tỉnh Trực Lệ), khai tổ của Địa Luận tông phương Nam, trung hưng về môn học “Tứ Phần Luật”. Ngài trước tác bộ Tứ Phần Luật Sớ và Yết Ma Giới Bản, để truyền bá về Luật học. Sau khi bộ Thập Địa Kinh Luận của Ngài Bồ Đề Lưu Chi ra đời, Ngài lại chuyên tâm nghiên cứu và trở thành một học phái của “Địa Luận”. Đương thời, Ngài còn là bậc Tổng Quản Tăng chúng, đời thường gọi Ngài là “Quang Thống Luật Sư”. Đệ tử của Ngài rất đông, những người ưu tú có Pháp Thượng, Tăng Phạm, Đạo Bằng, Đạo Thuận.
Pháp Thượng (495 - 580): Ngài người Triều Ca tỉnh Hà Nam, đệ tử thứ nhất của Tuệ Quang. Ngài giữ chức “Đại Thống” của Phật giáo ở hai thời đại Ngụy và Tề, trong khoảng 40 năm, học đồ có tới hàng trăm vạn người. Ngài còn là học giả về Niết Bàn và Lăng Già. Những trước tác của Ngài gồm có Phật Tính Luận (2 quyển), Tăng Nhất Số Pháp (40 quyển), Đại Thừa Nghĩa Chương (6 quyển). Đệ tử thượng túc của Ngài như Tuệ Viễn, Pháp Tôn, Đạo Thuận v.v.
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma): Ngài người Nam Thiên Trúc, và là khai Tổ của Thiền tông Trung Quốc, sau tịch ở chùa Thiếu Lâm núi Tung Sơn, tỉnh Hà Nam; thọ 150 tuổi. Về niên đại Ngài tới Trung Quốc có nhiều thuyết khác nhau, nhưng thuyết phổ thông nhất là năm đầu niên hiệu Phổ Thông (520) đời Lương, và tịch năm Thiên Bình thứ 2 (535) đời Hiếu Minh Đế Đông Ngụy, hoặc năm đầu niên hiệu Vĩnh An (528) đời Hiếu Trang Đế Bắc Ngụy. Trước khi tịch, Ngài có đem phép bí mật của Thiền truyền “Tâm ấn” cho đệ tử là Tuệ Khả, Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Quốc.
Sự phế Phật đời Bắc Chu: Sau khi Bắc Ngụy chia ra Đông Ngụy và Tây Ngụy, nước kế tiếp Đông Ngụy là Bắc Tề, và Tây Ngụy là Bắc Chu. Vua Bắc Chu là Hiếu Mẫn Đế và Hiếu Ninh Đế, cũng tin Phật giáo nhưng lấy tư tưởng Nho giáo làm văn hóa chính. Tới đời vua thứ ba là Võ Đế, sau khi tức vị (560), vì có hoài bão thống nhất lễ giáo, và thôn tính Bắc Tề, thống nhất thiên hạ, nên vua đã hạ chiếu chỉ phá hủy Phật giáo. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc gọi đây là lần pháp nạn thứ hai trong “Tam Võ nhất Tông pháp nạn”.
Nguyên nhân gây ra sự phá Phật này là do Vệ Nguyên Tung và Đạo sĩ Trương Tân. Trước hết, năm Thiên Hòa thứ 2 (567), Vệ Nguyên Tung dâng tấu kiến nghị nên phá hủy tất cả những chùa viện, mà chỉ lập một ngôi chùa lớn gọi là “Bình Đẳng Diên Tự”. Ngôi chùa này sẽ là nơi quy tụ của vạn dân, mà Hoàng đế tức là Như Lai. Vì vậy nhà vua đã hai ba lần hiệp nghị cùng với quần thần để giải quyết vấn đề đó nhưng chưa đi đến quyết định cuối cùng. Tới năm Thiên Hòa thứ 4 (569), vua hội họp tất cả các bậc Cao tăng, Danh nho, và Đạo sĩ, cùng tất cả hơn 200 người hiệp nghị, để bàn về lẽ hơn kém của các đạo, nhưng cũng không đi tới kết quả. Vua lại sắc cho Yên Bình để nghiên cứu về lẽ hơn kém đó. Yên Bình vâng lệnh vua soạn ra bộ Tiếu Đạo Luận (3 quyển) đệ lên vua, trong đó có bàn rõ lý do hư ngụy của Đạo giáo và lý do chân chính của Phật giáo. Năm Thiên Hòa thứ 5 (570) vua lại cho triệu tập đại hội để giải quyết những điều do Yên Bình đã trình bày, nhưng trong nhóm quần thần có Đạo sĩ Trương Tân tâu vua là bộ luận đó rất có hại cho đạo pháp, nên đã bị đốt trước cung đình. Sau đó còn có nhiều kỳ thảo luận để xếp thứ bậc của tôn giáo, kết cục Nho giáo đứng ở bậc nhất, Đạo giáo xếp hạng thứ hai và Phật giáo xếp hạng thứ ba. Tuy vậy nhưng phe Đạo sĩ vẫn chưa thỏa mãn, nhất là Trương Tân cố gắng tìm cách phá hoại Phật giáo, lại đề nghị tranh biện để quyết một phen hơn thua với Phật giáo. Tới năm Kiến Đức thứ 3 (574) ngày 17 tháng 5 vua cho họp các Cao tăng, Đạo sĩ lại để đăng đàn thảo luận. Đại biểu của Phật giáo có Trí Huyễn, bên Đạo giáo có Trương Tân lần lượt đăng đàn thảo luận, kết cục Trương Tân phải khuất phục trước sự hùng biện của Trí Huyễn. Nhà vua có thâm ý phế Phật, nhưng vì lý do trên, nên vua không thể phá bỏ Phật giáo được, nên sau ngày thảo luận, vua liền hạ chiếu phế bỏ cả hai đạo là Phật giáo và Đạo giáo. Như vậy thời kỳ phế Phật lần thứ hai này, là phế cả Phật giáo và Đạo giáo.
Sau khi chiếu chỉ phá Phật được ban bố, thì chùa miếu hoặc bị phá hoại, hoặc lấy làm nơi trụ trạch cho công khanh, kim tượng bị thiêu hủy, tài sản Tam bảo bị tịch thu, 3.000.000 Tăng Ni phải hoàn tục, hoặc trốn lánh vào núi rừng. Trong lúc nhà vua hạ lệnh phá Phật cũng đã có các danh Tăng như Tịnh Yết, Đạo Tích v.v., hết sức phản kháng nhưng cũng vô hiệu.
Sau khi Võ Đế phá Phật giáo tại Bắc Chu, năm 575 vua đem quân tiến đánh Bắc Tề, tới năm sau (576) thì chiếm xong Bắc Tề. Khi chiếm xong Bắc Tề (577), vua lại hạ lệnh phế bỏ Phật giáo tại Bắc Tề. Tất cả sự nghiệp huy hoàng của Phật giáo Bắc Tề, nay bị Võ Đế tiêu diệt hoàn toàn. Trong khi vua phá Phật cũng có rất nhiều các danh Tăng đứng ra phản đối, nhưng cũng vô hiệu. Thí dụ như Tuệ Viễn là người đã hết sức can ngăn vua, trong bộ Quảng Hoằng Minh Tập thấy chép: “Bệ hạ nay cậy sức mạnh tự do phá diệt Tam bảo, đó là người tà kiến, sau sẽ phải sa đọa vào địa ngục A Tỳ chịu khổ đời đời”. Vua liền trả lời: “Nếu khiến trăm họ được vui, Trẫm cũng không từ cái khổ ở địa ngục”. Ngài Tuệ Viễn lại nói, bệ hạ lấy tà pháp hóa nhân, gây nên nghiệp khổ, tất nhiên nhân dân sẽ cùng bệ hạ vào địa ngục A Tỳ”. Sau khi đã can vua nhưng không đem lại kết quả gì, Ngài liền về lánh nạn ở núi Thanh Liêu, chú thích được bộ kinh Niết Bàn. Tới đời nhà Tùy, Ngài được vua Văn Đế mời về giảng kinh tại chùa Tịnh Ảnh ở Lạc Dương, và phục hưng Phật giáo tại đây. Vì Ngài ở chùa Tịnh Ảnh nên người đương thời gọi Ngài là Tịnh Ảnh Pháp sư, để phân biệt với tên “Tuệ Viễn” ở Lư Sơn. Ngay sau năm phá diệt Phật giáo (578) Bắc Tề, thì vua Võ Đế băng hà, con là Tuyên Đế nối ngôi, Phật giáo lại có cơ hội phục hưng, vì vua đã chấp thuận lời tâu xin phục hưng Phật giáo của Sa môn Đạo Lâm, nên đầu niên hiệu Đại Thành (579), vua lại hạ lệnh phục hưng Phật giáo và Đạo giáo. Tuy nhiên, cơ hội phục hưng Phật giáo còn phải đợi ở đời Tùy.