1. Tư tưởng giáo học
Tư tưởng giáo học của Phật giáo đã được phát triển từ thời đại Đông Tấn, nhưng mãi tới thời đại Nam Bắc triều mới bước tới giai đoạn thành thục. Ở thời đại Đông Tấn có Ngài La Thập dịch thuật kinh luận thuộc tư tưởng “Không Tông” tức là “Thực Tướng Luận” của Ngài Long Thọ, đồng thời có Ngài Bồ Đề Lưu Chi, Lặc Na Ma Đề đời Bắc Ngụy dịch Thập Địa Kinh Luận, nên phát sinh ra Địa Luận tông và Ngài Chân Đế đời Lương dịch ra Nhiếp Đại Thừa Luận, trở thành Nhiếp Luận tông, để truyền bá về tư tưởng Duy thức học của Bồ Tát Thế Thân. Như vậy, tư tưởng “Không” của Thực Tướng Luận, và tư tưởng “Hữu” của Duy thức học đã song song phát triển hòa bình ở thời đại này. Ngoài ra, như Ngài Đàm Vô Sấm ở Bắc Lương, dịch Niết Bàn Kinh nên có Niết Bàn tông, Ngài Đàm Loan dựa vào Tịnh Độ Luận Chú lập ra Tịnh độ giáo, Ngài Tuệ Khả nương vào Lăng Già Kinh để truyền bá về Thiền tông. Các nhà học giả ở thời đại này, đã dựa vào các tông đó mà nghiên cứu, rồi trở thành các học phái, như học phái về Tỳ Đàm tông, học phái của Niết Bàn tông, Thành Thực tông, Tam Luận tông, Tịnh Độ tông, Nhiếp Luận tông, Địa Luận tông và Thiền tông v.v. Dưới đây là đại lược về giáo nghĩa và hệ thống truyền thừa của các tông.
Tỳ Đàm tông
Tên Tông: Tông này dựa vào Luận Tạng trong Tam tạng của Phật giáo Tiểu thừa để nghiên cứu, nên gọi là Tỳ Đàm tông.
Giáo nghĩa: Chủ trương về giáo nghĩa “Tam thế thực hữu” và “Pháp thể hằng hữu” của Tiểu thừa Hữu bộ.
Truyền thừa: Vì tông này chỉ chú trọng về mặt nghiên cứu nên không có hệ thống truyền thừa rõ rệt.
Lịch sử truyền dịch về A Tỳ Đàm xuất hiện rất nhiều. Trước hết, Ngài An Thế Cao đời Hậu Hán, dịch bộ A Tỳ Đàm Cửu Thập Bát Kết Kinh; Ngài Tăng Già Bà Đề đời Tiền Tần, dịch bộ A Tỳ Đàm Tâm Luận và A Tỳ Đàm Bát Kiên Độ Luận, Tam Pháp Độ Luận v.v. Về sau A Tỳ Đàm Tâm Luận của Ngài Pháp Thắng cũng được tiếp tục dịch ra. Ngài Pháp Hiển khi về triều, đã mang về được nguyên văn Phạn bản gồm 6.000 bài kệ của bộ A Tỳ Đàm Tâm Luận do Ngài Phật Đà Bạt Đà La dựa vào nguyên văn đó dịch thành 13 quyển và Na Liên Đề Da Xá đời Bắc Tề dịch bộ A Tỳ Đàm Tâm Luận Kinh (6 quyển) v.v. Sau khi những bộ đó ra đời, thì việc nghiên cứu và giảng nghĩa những bộ luận đó cũng rất thịnh hành. Huệ Tập mỗi khi giảng về A Tỳ Đàm, thính giả đông tới hàng ngàn người. Các Ngài Tăng Mân, Pháp Vân, Tăng Tung cũng là những học giả của Tỳ Đàm tông.
Trong các bộ luận kể trên, chỉ có A Tỳ Đàm Tâm Luận của Ngài Pháp Thắng là được nhiều người nghiên cứu và giảng giải chú thích. Nội dung của bộ A Tỳ Đàm Tâm Luận cũng tương tự như Câu Xá Luận, nghĩa là cũng đem chia các pháp ra làm năm vị: Sắc, Tâm, Tâm sở, Bất tương ưng và Vô vi. Trong năm vị này lại chia thành 75 pháp (hoặc 87) gọi là “Ngũ vị thất ngũ pháp”. Tông này sau sáp nhập vào Câu Xá tông.
Niết Bàn tông
Tên tông: Vì dựa vào Kinh Niết Bàn nên gọi là Niết Bàn tông.
Giáo nghĩa: Chủ trương hết thảy chúng sinh đều có Phật tính nên hết thảy chúng sinh đều có thể thành Phật.
Giáo phán: Tông này đem giáo lý trong một đời thuyết pháp của Phật chia ra hai giáo là Đốn giáo và Tiệm giáo (hoặc có thuyết nói chia làm ba giáo, thêm vào đó là Bất định giáo). Trong Tiệm giáo chia làm năm thời như sau:
Tông này y cứ vào Kinh Đại Bát Niết Bàn gọi tắt là Niết Bàn do Ngài Đàm Vô Sấm dịch (tham chiếu mục 5 chương V, Lịch sử truyền dịch Kinh Niết Bàn), thuộc Đại thừa Niết bàn, bàn rõ về lý Pháp thân thường trụ của Phật, và chủ trương hết thảy chúng sinh đều có Phật tính. Ngài Tuệ Quán khi sửa chữa lại Kinh Niết Bàn thành 36 quyển, sáng chế cách phán thích về giáo tướng như trên. Sự truyền thừa của tông này lấy Ngài Đàm Vô Sấm làm Sơ Tổ, rồi tông này được truyền về phương Nam, nên đã chia ra phái Bắc Niết Bàn và phái Nam Niết Bàn. Theo biểu (1), (2), (3), (4) là nhóm các học giả về phái Nam Niết bàn, còn biểu (5) là nhóm học giả của phái Bắc Niết bàn.
Thành Thực tông
Tên tông: Tông này dựa vào luận Thành Thực, nên gọi là Thành Thực tông.
Giáo nghĩa: Thuyết minh về tư tưởng “Nhân pháp câu không”.
Tông này căn cứ vào Luận Thành Thực, do Ngài Ma Lê Bạt Ma (Harivaman), người Trung Thiên Trúc trước tác, Ngài La Thập dịch, gồm có 16 quyển (hoặc 20 quyển), chia thành 202 phẩm. Nội dung bộ luận này chia ra năm Tụ là Pháp tụ, Khổ Đế tụ, Tập Đế tụ, Diệt Đế tụ, và Đạo Đế tụ. Pháp Tụ giải thích về nghĩa Tam bảo và mục đích tạo luận; Khổ Đế tụ nói về cái khổ nung nấu của ngũ đế tụ, bàn về vấn đề nghiệp và phiền não; Diệt Đế tụ giải thích về Niết bàn; Đạo Đế tụ, thuyết minh về Định và Trí. Đặc biệt, bộ luận này còn bàn đến vấn đề “Nhân pháp câu không”. Nghĩa là phàm phu vì chấp nhận cái thân này có cái chủ tể tức là “Chấp nhân”, khi cái thân này mất đi, thì cái hình hài của con người chỉ do ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức kết hợp lại mà thành chứ không có gì là chủ tể cả, nên gọi là “Nhân Không”, và chư pháp chỉ do nhân duyên hòa hợp mà thành chứ không có tự tính, nên gọi là “Pháp Không”.
Về sự truyền thừa của tông này theo như biểu (1) ở trên là hệ thống chính thống; biểu (2) là hệ thống học phái của Thành Thực tông, hoạt động ở phương Bắc; biểu (3) là hệ thống các nhà học giả về phái Thành Thực ở phương Nam.
Tam Luận tông
Tên tông: Tông này y vào ba bộ luận là Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận làm căn cứ, nên gọi là Tam Luận tông.
Giáo nghĩa: Giáo nghĩa của tông này chủ trương “Phá tà hiển chính”. Thí dụ, phá tà là phá tám cái mê vọng như sinh, diệt, khứ, lai, nhất, dị, đoạn, thường; hiển chính là hiển tám cái lý chân chính như không sinh, không diệt, không đi, không lại, không một, không khác, không đoạn, không thường của Trung đạo.
Khi Đức Phật mới thành đạo, Ngài đem những điều đã chứng ngộ được nói ra Kinh Hoa Nghiêm cho các hàng Bồ tát nghe, nên người Tam thừa không thể hiểu nổi, vì vậy Phật lại lần lượt nói ra kinh điển Tiểu thừa, Đại thừa, Kinh Pháp Hoa cốt để đưa Tam thừa quy tụ về Nhất thừa.
Từ xưa đến nay thường gọi thất đại tương thừa của Tam Luận tông là Ngài Cưu Ma La Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng, Tăng Thuyên, Pháp Lãng, Cát Tạng. Truyền tới Ngài Cát Tạng thì giáo nghĩa của Tam Luận tông được tổ chức lại, nên gọi là “Tân Tam Luận Tông”, còn từ Ngài trở về trước gọi là “Cổ Tam Luận Tông”. Ngài Cát Tạng đem truyền cho đệ tử là Tuệ Quán, người Cao Ly; Ngài Tuệ Quán lại đem truyền cho Phúc Lượng, người Nhật Bản.
Tịnh Độ tông
Tên tông: Tông này vì hoằng truyền pháp môn “Vãng sinh Tịnh độ” nên gọi là “Tịnh độ tông”.
Giáo nghĩa: Tông này y vào ba bộ kinh và một bộ luận làm giáo nghĩa then chốt. Ba bộ kinh là Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (2 quyển), gọi tắt là Đại Kinh do Ngài Khương Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch. Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh (1 quyển), gọi tắt là Quán Kinh, Ngài Cương Lương Da Xá đời Lưu Tống dịch. Phật Thuyết A Di Đà Kinh (1 quyển), gọi tắt là Tiểu Kinh do Ngài La Thập đời Diêu Tần dịch. Một bộ luận là Vãng Sinh Tịnh Độ Luận do Ngài Thế Thân trước tác, và Ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch. Kinh Vô Lượng Thọ nói về tiền thân của Đức Phật A Di Đà khi còn là Tỳ kheo Pháp Tạng đã phát 48 điều thệ nguyện để cứu độ chúng sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói rõ phép Quán tưởng niệm Phật. Kinh A Di Đà tả cảnh giới Cực lạc vô cùng trang nghiêm, có Đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp, Luận Vãng Sinh Tịnh Độ là bộ luận thâu tóm về ý nghĩa của ba bộ kinh trên.
Truyền thừa:
Bồ Đề Lưu Chi - Đàm Loan - Đạo Xước - Thiện Đạo (dòng Thiện Đạo - Hoài Cảm - Thiếu Khang - Diên Thọ - Tĩnh Thường v.v.)
Về pháp môn tu Tịnh độ ở Trung Quốc khởi thủy từ Ngài Tuệ Viễn, lập ra “Bạch Liên Xã” ở Lư Sơn, nên có dòng Tuệ Viễn. Sau, Ngài Đàm Loan kế thừa phép tu Tịnh độ ở Ngài Bồ Đề Lưu Chi rồi truyền tới Ngài Thiện Đạo. Ngài Thiện Đạo là vị hoàn thành về giáo nghĩa của Tịnh độ tông Trung Quốc, nên cũng gọi là dòng Thiện Đạo. Biểu đồ trên là hệ thống truyền thừa của dòng Thiện Đạo. Sau nữa lại có Ngài Từ Mẫn (Tuệ Nhật), trong khi “nhập Trúc cầu Pháp” trực tiếp được truyền pháp môn Tịnh độ ở Ấn Độ, khi trở về truyền bá pháp môn đó ở Trung Quốc, nên lại có dòng Từ Mẫn. Dòng Tuệ Viễn thì chú trọng ở môn “Quán tưởng niệm Phật”, Ngài Đàm Loan chú trọng môn “Tín tâm niệm Phật”, dòng Thiện Đạo chú trọng môn “Khẩu xưng niệm Phật” và dòng Từ Mẫn chú trọng ở phương diện “Thiện căn niệm Phật”.
Nhiếp Luận tông
Tên tông: Tông này căn cứ vào bộ Nhiếp Đại Thừa Luận, nên gọi là Nhiếp Luận tông.
Giáo nghĩa: Giáo nghĩa của tông này lấy Duy thức pháp môn làm mục tiêu, cũng giống như Pháp Tướng tông.
Giáo phán: Lối phán thích về giáo tướng của tông này là “Nhị giáo”, “Tam luận” và “Tứ giáo” theo như biểu sau:
Tông này lấy Nhiếp Đại Thừa Luận (3 quyển) do Ngài Vô Trước trước tác, Ngài Chân Đế dịch thuật, đồng thời cũng căn cứ vào bộ Nhiếp Đại Thừa Luận Thích của Ngài Thế Thân trước tác, Ngài Chân Đế dịch, làm giáo nghĩa chính của tông. Nhiếp Đại Thừa Luận bàn về mười thắng tướng, để nêu cao địa vị của Phật giáo Đại thừa và bao quát cả về nghĩa Duy thức, cũng là bộ luận đầu tiên của Duy thức học. Trong mười thắng tướng, tướng thứ nhất bàn về thức A lại da, giải thích rõ tất cả các pháp đều từ nơi thức đó mà sinh ra; tướng thứ hai bàn về ba tính là “Y tha tính”, “Phân biệt tính” và “Chân thực tính”; tướng thứ ba nói, nếu ngộ được phép quán “vạn pháp duy thức” tức là chứng được “duy tâm”; tướng thứ tư bàn về “Lục độ”; tướng thứ năm nói về cảnh giới của “Thập Địa Bồ Tát”; tướng thứ sáu bàn về “Đại thừa giới”; tướng thứ bảy nói về “Thiền định”; tướng thứ tám nói về “Trí tuệ”; tướng thứ chín bàn về “Vô phân biệt trí”; tướng thứ mười bàn về “Phật thân”. Ba tướng đầu nói về cảnh giới duy thức, bảy tướng sau nói về cách tu hành chứng quả.
Biểu đồ truyền thừa trên, các nhà học giả Nhiếp Luận tông thì đều truyền bá ở phương Nam, còn ở phương Bắc do hệ thống Ngài Đàm Thiên hoạt động, nên Nhiếp Luận tông ở phương Bắc mới dần dần phát triển. Về sau tông này phụ thuộc vào “Pháp Tướng tông”.
Địa Luận Tông
Tên tông: Tông này y cứ vào Thập Địa Kinh Luận, gọi tắt là Thập Địa Luận, cũng gọi là Địa Luận tông.
Giáo nghĩa: dựa vào giáo nghĩa của “Thập Địa Bồ Tát” để tu hành, mong đạt tới Phật quả.
Giáo phán: Giáo phán chia làm ba giáo và bốn tông.
Thập Địa Kinh Luận do Ngài Thế Thân chú giải Kinh Thập Địa tức phẩm Thập Địa của Kinh Hoa Nghiêm mà thành, và tương truyền do ba Ngài Lặc Na Ma Đề, Phật Đà Phiến Đa, Bồ Đề Lưu Chi cùng dịch, hoặc các Ngài dịch riêng biệt, rồi do Ngài Tuệ Quang đem tổng hợp lại thành một. Nội dung của bộ luận này bàn về phương pháp tu hành tự lợi lợi tha của Thập Địa Bồ Tát. Thập Địa là Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Minh Địa, Diễm Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện Tuệ Địa, Pháp Vân Địa. Sau khi bộ luận này được dịch ra, có rất nhiều học giả nghiên cứu và chú giải, nên trở thành Địa Luận tông.
Truyền thừa:
Vì địa lý và tư tưởng khác nhau nên tông này lại phát sinh ra hai hệ thống là “Nam Địa” và “Bắc Địa”. Ngài Tuệ Quang là lãnh tụ của hệ thống Nam Địa, hoằng truyền về Địa Luận tông ở phương Nam. Ngài Đạo Sủng được thọ giáo ở Ngài Bồ Đề Lưu Chi, là lãnh tụ của hệ thống Bắc Địa truyền bá ở phương Bắc, nhưng kém phần thịnh hành hơn hệ thống phía Nam. Sau tông này phụ thuộc vào Hoa Nghiêm tông. Hệ thống truyền thừa theo biểu đồ dưới.
Thiền Tông
Tên tông: Tông này chủ trương phép tu tập “Thiền định” nên gọi là “Thiền tông”, hoặc gọi là “Phật Tâm tông”.
Giáo nghĩa: Giáo nghĩa then chốt của tông này là “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, nghĩa là không câu nệ vào văn tự, kinh điển, mà chỉ nương vào công phu tu định, để ngộ được Phật tính của chính mình.
Truyền thừa:
Danh từ “Thiền định” hay “Tĩnh lự” đều có ý nghĩa là làm cho tĩnh cái tâm dao động hàng ngày, để phát sinh trí tuệ. Về quá trình của “Thiền tông” thì đã có những phép “Tiểu thừa thiền quán” lưu hành ở thời Ngài An Thế Cao đời Hậu Hán và “Đại thừa thiền quán” lưu hành ở thời Ngài Giác Hiển, La Thập và Tuệ Viễn, cuối đời Đông Tấn (tham chiếu mục 6 chương 5). Nhưng sau khi Ngài Đạt Ma tới Trung Quốc truyền bá về tư tưởng thiền thuộc “Thuần túy Đại thừa thiền”, chủ trương thuyết “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, khác với những phép Thiền quán trước, nên gọi là “Tối thượng thiền” hay “Như Lai thiền”, hoặc “Như Lai thanh tịnh thiền”. Lối thiền này chỉ lấy tâm truyền tâm, nên gọi là “Truyền tâm ấn”.
Ngài Đạt Ma là Tổ thứ 28 ở Tây Trúc, và là Tổ thứ nhất truyền về Thiền tông ở Trung Quốc. Trước khi tịch, Ngài đem Kinh Lăng Già là bộ kinh “Tâm yếu” của Thiền truyền cho đệ tử là Tuệ Khả (Tổ thứ hai), Tuệ Khả truyền cho đệ tử là Tăng Xán (Tổ thứ ba), Tăng Xán truyền cho đệ tử là Đạo Tín (Tổ thứ tư), Đạo Tín truyền cho đệ tử là Hoằng Nhẫn (Tổ thứ năm), rồi Hoằng Nhẫn truyền cho Thần Tú, Thần Tú truyền Thiền tông ở phương Bắc nên có “Bắc Thiền”, và Tuệ Năng (Tổ thứ sáu) hoằng truyền Thiền tông ở phía Nam nên gọi là “Nam Thiền”. Nam Thiền sau lần lượt chia thành năm tông là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế tông sau lại chia thành hai phái là Hoàng Long và Dương Kỳ. Năm tông kể trên, thêm vào hai phái sau, trong lịch sử gọi là “Ngũ Gia Thất Tông”. Hệ thống truyền thừa theo như đồ biểu trên.
2. Tư tưởng mạt pháp
Ngoài các tư tưởng về giáo học của các tông kể trên, ở thời gian này còn phát sinh tư tưởng “mạt pháp”. Tư tưởng mạt pháp là tư tưởng thời đại quán của Phật giáo, dựa trên ba thời là “chính pháp”, “tượng pháp” và “mạt pháp” làm căn bản. Chính pháp là thời đại sau khi Đức Phật nhập diệt, giáo lý hãy còn nghiễm nhiên tồn tại, “tượng pháp” là thời kỳ sau khi chính pháp diệt, chỉ còn giáo lý tương tự với thời chính pháp, “mạt pháp” là thời kỳ giáo pháp dần dần bước tới chỗ suy tàn. Về niên hạn của ba thời, trong kinh điển còn nhiều thuyết khác nhau, nhưng theo thuyết phổ thông, thì thời chính pháp có 500 năm, tượng pháp 1.000 năm, và mạt pháp 10.000 năm. Phật giáo đời Nam Bắc triều lấy năm Phật nhập diệt làm niên kỷ chính thống, tức năm Nhâm Thân (949 trước TL) năm thứ 53 đời Chu Mục Vương. Theo thuyết này, thì thời chính pháp, tượng pháp đã hết, và thời mạt pháp đã bắt đầu từ khoảng năm đầu niên hiệu Thừa Thánh thời vua Nguyên Đế đời Lương của Nam triều, và khoảng năm Thiên Bảo thứ 3 (552) đời Văn Tuyên Đế Bắc Tề thuộc Bắc triều. Đương thời, những kinh điển có nói đến tư tưởng mạt pháp như Ma Ha Ma Da Kinh do Đàm Cảnh đời Bắc Tề dịch và Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh do Ngài Na Liên Đề Da Xá dịch đã thấy xuất hiện.
Phật giáo đương thời cho rằng, việc Võ Đế nhà Bắc Chu phá hủy Phật giáo là một điềm báo cụ thể cho thời kỳ mạt pháp đã tới, nên các nhà cầm vận mệnh của Phật giáo đã nghĩ ra những phương pháp hoạt động, truyền bá Phật giáo làm sao cho thích hợp thời cơ, hợp với thời kỳ mạt pháp, cho nên mới có “Tam Giai giáo” của Ngài Tín Hành, và “Tân Tam Luận tông ” của Ngài Cát Tạng xuất hiện ở đời Tùy. Tịnh độ giáo của Ngài Đạo Xước, Thiện Đạo, cùng Hoa Nghiêm tông của Ngài Tôn Mật xuất hiện ở đời Đường. Các tông đều dựa vào “tư tưởng mạt pháp” để truyền bá Phật pháp. Vì thế Phật giáo đời Tùy, Đường rất hưng thịnh, các giáo học mới của Phật giáo phát triển mạnh mẽ như trăm hoa đua nở. Như vậy, pháp Phật thịnh hay suy là do nơi người hoằng đạo, chứ đâu phải giới hạn ở thời kỳ chính pháp hay mạt pháp.
Hơn nữa, vì muốn duy trì Phật pháp được lâu dài ở đời, nên đã xảy ra một sự nghiệp vĩ đại là việc khắc Tạng kinh vào đá ở núi Phòng Sơn (tỉnh Hà Bắc) của Sa môn Tĩnh Uyển. Vì bia đá ở núi Phòng Sơn, Tĩnh Uyển đã khắc một đoạn: “Chính pháp và tượng pháp, gồm 1.500 năm đã qua, đến niên hiệu Trinh Quán năm thứ 2 (628) đã bước vào thời kỳ mạt pháp 75 năm rồi. Tới thời kỳ Phật pháp bị hủy diệt ở vị lai, thì sẽ có kinh điển khắc bằng đá để lưu truyền vĩnh viễn ở đời”.
Tĩnh Uyển có hoài bão lớn lao đó, nên năm đầu niên hiệu Đại Nghiệp (605) đời Tùy, Ngài dựng chùa Vân Cư ở chân núi Phòng Sơn để trụ trì, và dựng ra nhà đá ở trên núi để khắc kinh điển vào bốn mặt vách của nhà, cắt đá thành từng mảnh nhỏ, rồi khắc kinh vào đó, khi khắc xong, xếp vào trong nhà đá, lấy khóa khóa lại cẩn thận. Sự nghiệp đó cứ tiếp tục như vậy, tới năm Trinh Quán thứ 13 (639) đời Đường thì mất. Trong hơn 30 năm, Ngài đã khắc được 7 nhà kinh bằng đá (hiện nay hãy còn di tích). Sau khi Ngài mất, những người kế tục sự nghiệp đó qua các thời đại Đường, Liêu, Kim cho tới nhà Nguyên, trong vòng 700 năm, đã hình thành một “Đại Tạng Kinh” khắc bằng đá. Hiện nay gọi núi đó là núi “Thạch Kinh”, hoặc gọi là “Phòng Sơn Thạch Kinh”. Ngoài Thạch Kinh ở Phòng Sơn, lại còn có “Bảo Sơn Thạch Kinh” thuộc tỉnh Hà Nam, người phát nguyện khai tạc công việc này là danh Tăng Linh Dụ đời Bắc Tề.