Tư tưởng giáo học Phật giáo đời Tùy cũng như đời Đường về sau, là những tư tưởng độc đáo, sáng tạo, không phụ thuộc vào sự nghiệp chú thích, phiên dịch và nghiên cứu như các thời đại trước. Giáo học Phật giáo đời Tùy, có Thiên Thai tông của Ngài Trí Khải, Tam Giai giáo của Ngài Tín Hành và Tân Tam Luận Tông của Ngài Cát Tạng.
Thiên Thai tông
Tên tông: Vì Ngài Trí Khải ở núi Thiên Thai, nên có tên là Thiên Thai tông, tông này y cứ vào Kinh Pháp Hoa, nên cũng có tên là “Pháp Hoa Tông”.
Giáo nghĩa: Giáo nghĩa chủ yếu của tông này là “Nhất tâm tam quán”. Nghĩa là, trong một tâm niệm của con người, có đầy đủ cả “Không quán”, “Trung quán” và “Giả quán”.
Giáo phán: Tông này đem giáo lý kinh điển trong một đời thuyết pháp của Phật chia làm năm thời và tám giáo, nên gọi là “Ngũ thời Bát giáo”.
Tông này, Ngài Tuệ Văn là Sơ Tổ, rồi đến Ngài Tuệ Tư (Nam Nhạc), Ngài Trí Khải, dần dần truyền tới Ngài Thanh Tủng, môn đệ của Thanh Tủng sau lại chia thành hai phái là “Sơn Gia” và “Sơn Ngoại” theo như biểu đồ trên. Sự truyền thừa, tuy lấy Ngài Tuệ Văn làm Sơ Tổ, nhưng người sáng lập ra tông này là Trí Khải (Trí Giả Đại sư). Ngài là một bậc học giả độc nhất vô nhị đời Tùy, đã đem giáo lý của Đức Phật phán thích làm “Ngũ thời bát giáo”, như biểu đồ trên, để thành lập Thiên Thai tông. Lối phán giáo đó là một hệ thống triết học tối cao của Phật giáo.
Tuệ Văn: Ngài người thời Bắc Tề, không rõ quê quán và năm sinh. Sau khi xuất gia, nhân khi đọc bộ Đại Trí Độ Luận tới quyển thứ 27 ngộ được diệu chỉ của “Nhất tâm tam trí”. Nghĩa là trong một tâm niệm có đủ cả “Đạo Chủng Trí”, “Nhất Thiết Trí” và “Nhất Thiết Chủng Trí”, lại nhân khi đọc tới phẩm Tứ Đế của Trung Luận chợt ngộ được lý “Nhất tâm tam quán”. Sau Ngài đem diệu lý “Nhất tâm tam quán” đó truyền cho học trò là Tuệ Tư, Tuệ Tư lại truyền cho Trí Khải, nên tư tưởng đó trở thành tư tưởng then chốt của Thiên Thai tông. (Lược sử Ngài Tuệ Tư, tham chiếu ở mục 2 chương VI)
Trí Khải (538 - 597): Ngài người Kinh Châu, tỉnh Hồ Bắc, sinh năm Đại Đồng thứ 4 (538) đời nhà Lương, 18 tuổi đi xuất gia, tới núi Đại Tô ở Quảng Châu tỉnh Hà Nam, theo Ngài Tuệ Tư học pháp môn Pháp Hoa, ngộ triệt được phép “Pháp Hoa Tam muội”, được thầy truyền cho lý “Nhất tâm tam quán”, rồi về trụ trì tại chùa Ngõa Quan ở Kim Lăng (Kiến Khang), Ngài giảng Kinh Pháp Hoa đều được các bậc danh tăng đương thời thán phục. Ngài ở chùa này 8 năm, rồi lại dời về núi Thiên Thai (tỉnh Chiết Giang), nên có tên là Thiên Thai Đại sư. Ở núi này tất cả 9 năm chuyên nghiên cứu, thuyết giảng. Vì nhận lời thỉnh của vua nhà Trần (583), nên Ngài trở về Kim Lăng, giảng Kinh Pháp Hoa Văn Cú tại chùa Quang Trạch. Tới năm Khai Hoàng thứ 11 (591) đời nhà Tùy, Thái tử Tấn Vương Quảng (Dạng Đế) thỉnh Ngài tới cung điện để thọ giới Bồ tát cho Thái tử, và tặng Ngài tên hiệu “Trí Giả Đại sư”. Sau Ngài trở về cố hương ở Kinh Châu, xây dựng chùa Ngọc Tuyền, giảng Kinh Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Ma Ha Chỉ Quán. Tới năm Khai Hoàng thứ 17 (597), lại trở về núi Thiên Thai và tịch vào năm đó, thọ 60 tuổi, trước tác của Ngài có những bộ chủ yếu như Pháp Hoa Văn Cú (20 quyển), Pháp Hoa Huyền Nghĩa (20 quyển), Ma Ha Chỉ Quán (20 quyển), gọi là “Tam Đại Bộ” và Quan Âm Huyền Nghĩa” (2 quyển), Quan Âm Nghĩa Sớ (2 quyển), Kim Quang Minh Huyền Nghĩa (2 quyển), Kim Quang Minh Văn Cú (2 quyển), Quán Kinh Sớ (1 quyển), gọi là “Ngũ tiểu bộ”.
Ngoài ra còn nhiều trước tác khác. Đệ tử của Ngài rất đông, nhưng Quán Đính (Chương An Đại sư) là người xuất sắc hơn cả và có công ghi chép những lời Ngài giảng dạy.
Quán Đính (561- 632): Ngài người huyện Hoài Lâm, tỉnh Chiết Giang, lên 7 tuổi đầu Phật xuất gia, thờ Ngài Tuệ Chửng làm thầy, 20 tuổi thọ giới Cụ túc. Sau khi thầy mất, Ngài tới núi Thiên Thai, theo Trí Giả Đại sư tham học. Ba Đại bộ của Trí Giả Đại sư là do bút ký của Ngài mà thành. Sau khi Trí Giả Đại sư mất, Ngài kế nghiệp thầy, ở núi Thiên Thai để tuyên dương chính giáo. Tới năm Trinh Quán thứ 6 (632) thì tịch. Trước tác của Ngài có Quán Tâm Luận Sớ (5 quyển), Thiên Thai Bát Giáo Đại Ý (1 quyển), Quốc Thanh Bách Lục (4 quyển) v.v. Đệ tử có Quan Anh, Trí Uy, Minh Khoáng.
Tam Giai Giáo (Phả Pháp tông): Người khai sáng ra Tam Giai giáo là Tín Hành (540- 594). Ngài người Ngụy Châu, tỉnh Hà Bắc. Sau xuất gia trụ trì tại chùa Pháp Tạng ở Tương Châu (tỉnh Hà Nam), hiểu biết nhiều kinh điển. Ngài có hoài bão đem Phật pháp truyền bá sâu rộng trong dân gian, nên Ngài mới đề xướng ra một tôn giáo mới gọi là “Tam giai giáo”, để thích hợp với thời cơ, quốc độ.
Tam giai giáo, nghĩa là đem giáo pháp của đức Thích Tôn chia làm ba bậc là “Nhất thừa”, “Tam thừa” và “Phả pháp”. Ba bậc này lại đem phối hợp với ba thời là “Chính pháp”, “Tượng pháp” và “Mạt pháp” mỗi thời lại phải thích hợp với “Thời” (thời đại), “Xứ” (nơi chốn), và “Nhân” (hạng người). Kết cục, hiện nay là thời mạt pháp, chúng sinh ở cõi này, ngoài “Phả pháp giáo” ra, thì không thể nương vào giáo pháp nào mà giải thoát được sinh tử. Vậy “Phả pháp giáo” hay “Phả pháp Phật giáo” là một giáo pháp độc nhất, hợp với cơ duyên đời mạt pháp. Phả pháp Phật giáo được thực hành theo ba nghĩa “Nhận ác”, “Phả kính” và “Phả hành”, nghĩa là hiện tại chúng sinh đều là người phàm phu tội lỗi (nhận ác), nhưng chúng sinh đều có Phật tính, nên chúng sinh sẽ thành Phật (phả kính) và tất cả thiện nghiệp ở thế gian đều coi là Phật hạnh (phả hạnh), trừ diệt được tội lỗi. Như vậy Phả pháp Phật giáo là một giáo pháp tương ứng với thời đại.
Ngài Tín Hành tự mình xả giới, thực hành những công việc cần lao và tận lực truyền bá về tư tưởng Phả pháp. Năm Khai Hoàng thứ 9 (586), được vua Văn Đế nhà Tùy thỉnh tới trụ trì chùa Chân Tịch tại Tràng An, ở đây Ngài soạn được bộ Đối Căn Khởi Hành Pháp và Tam Giai Phật Pháp, để truyền bá tư tưởng Phả pháp ở Tràng An. Tới năm Khai Hoàng thứ 14 (594) thì tịch, thọ 55 tuổi. Nhưng tới năm Khai Hoàng thứ 20 (600) các kinh pháp của Phả pháp giáo đều bị cấm lưu hành vì sợ loạn mất trật tự giáo lý của Phật giáo. Tuy vậy nhưng giáo này cũng truyền bá được tới cuối đời nhà Đường mới tan rã hẳn.
Tân Tam Luận Tông: Tam Luận tông đã được thành lập từ thời đại Đông Tấn, nhưng tới khi truyền đến Ngài Cát Tạng, Ngài tổ chức lại giáo nghĩa của Tam Luận Tông thành một thế hệ mới, nên gọi là “Tân Tam Luận tông” (tham chiếu ở mục 4 chương VI).
Cát Tạng (549 - 623): Ngài người Kim Lăng (Nam Kinh) tỉnh Giang Tô, cha người nước An Tức, diện mạo giống hệt người Tây Vực, nhưng lại nói tiếng Trung Quốc, nên đời thường gọi là Hồ Cát Tạng. Ngài đầu Phật xuất gia ở Hưng Hoàng, dựa vào Ngài Pháp Lãng làm thầy, chuyên nghiên cứu về Tam Luận. Tới cuối đời nhà Trần, vì có loạn lạc, nên Ngài về ở chùa Gia Tường thuộc Triệu Châu (tỉnh Chiết Giang), đời thường tôn xưng là “Gia Tường Đại sư”. Tới đời Tùy, Ngài được vua mời về ở Nhất Nghiêm Đạo Tràng tại Tràng An và Tuệ Nhật Đạo Tràng ở Dương Châu. Ngài chuyên việc giảng thuyết về “Tam Luận” và phát huy được diệu lý của “Bát bất Trung đạo”. Tới năm Võ Đức thứ 6 (623) đời Cao Tổ nhà Đường thì tịch, thọ 75 tuổi. Hài cốt Ngài được táng ở chùa Chí Tướng núi Chung Nam. Môn đệ của Ngài là Tuệ Quán, Tuệ Lãng, Trí Khải. Trước tác của Ngài gồm có Trung Luận Sớ (10 quyển), Bách Luận Sớ (3 quyển), Thập Nhị Môn Luận Sớ (3 quyển), Đại Thừa Huyền Luận (5 quyển), Nhị Đế Nghĩa (3 quyển), Tam Luận Huyền Nghĩa (1 quyển) và chú sớ các Kinh Hoa Nghiêm, Đại Phẩm, Pháp Hoa.
Danh Tăng của các học phái: Trong thời đại này có rất nhiều danh tăng của các học phái hoạt động từ thời đại Nam Bắc Triều cho tới đời nhà Tùy, như Đàm Thiên, Linh Dụ, Đàm Diên, Tuệ Viễn v.v.
Đàm Thiên (542 - 607): người huyện Nhiêu Dương, tỉnh Hà Bắc, học giả của Nhiếp Luận Tông, chế tác ra bộ Nhiếp Đại Thừa Luận Sớ (10 quyển) và hơn 10 quyển khác.
Linh Dụ (518 - 605): Ngài người huyện Khúc Dương, tỉnh Hà Bắc, học giả của Địa Luận tông, Niết Bàn, Luật và Bát Nhã. Ngài đã khởi công khai tạc Thạch kinh ở Phòng Sơn. Vì đạo cao đức trọng, nên đời thường gọi là Dụ Bồ tát. Ngài trước thuật những bộ Tứ Phần Luật Sớ (5 quyển), Thập Địa Luận Sớ, Niết Bàn Kinh Sớ (6 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Sớ (8 quyển), Bát Nhã Kinh Sớ.
Đàm Diên (516 - 588): Người Bồ Châu, tỉnh Sơn Tây, học giả của Niết Bàn tông, đã từng giữ chức Quốc Thống đời Bắc Tề. Đời thường gọi Ngài là Đàm Diên Bồ tát. Tới đời Tùy, Ngài là một trong những nhân vật phục hưng Phật giáo. Ngài trước tác bộ Niết Bàn Kinh Nghĩa Sớ (15 quyển) và Thắng Man Kinh Sớ. Môn đệ của Ngài là Pháp Thường, Tuệ Hải v.v.
Tuệ Viễn (523 - 592): Ngài người huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, học giả của Niết Bàn tông. Khi vua Võ Đế Bắc Tề phá Phật, Ngài đã cực lực can gián, nhưng không hiệu quả, nên Ngài vào ẩn dật tại núi Tây Sơn ở Cấp Quận. Tới đời Tùy Văn Đế, Ngài được vua mời về trụ trì tại chùa Tịnh Ảnh để giảng thuyết, và phục hưng Phật giáo, trước tác những bộ Đại Thừa Nghĩa Chương (28 quyển), Đại Niết Bàn Kinh Nghĩa Lý (20 quyển), Thập Địa Kinh Luận Nghĩa Ký (14 quyển), Hoa Nghiêm Sớ (7 quyển) và Pháp Hoa sớ (7 quyển).