Sự nghiệp phiên dịch kinh điển ở đời Tùy, ngoài ba Ngài Na Liên Đề Da Xá, Xà Na Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa ra, không có gì nổi bật cả.
Na Liên Đề Da Xá (Narendrayasas): Ngài người Bắc Thiên Trúc, tới Trung Quốc vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 7 (556) đời Bắc Tề, được Văn Tuyên Đế rất trọng đãi, mời ở chùa Thiên Bình để dịch kinh. Tới đời nhà Tùy, vua Văn Đế lại sắc Ngài ở chùa Đại Hưng Thiện để dịch kinh, có Đàm Diên và 30 người nữa giúp sức, tới niên hiệu Khai Hoàng năm thứ 9 (589) thì tịch. Những kinh điển mà Ngài đã dịch ra như Đại Phương Đẳng Nhật Tụng Kinh (15 quyển), Nguyệt Tạng Kinh (12 quyển), Bồ Tát Kiến Bảo Tam Muội Kinh (14 quyển) và Pháp Thắng A Tỳ Đàm Tâm Luận (7 quyển).
Xà Na Quật Đa (Jnanagupta): Ngài người Bắc Thiên Trúc, tới Trung Quốc từ đời Bắc Chu, trụ trì chùa Tứ Thiên Vương, chuyên việc phiên dịch, gặp lúc Võ Đế Bắc Chu phá Phật, Ngài phải trốn lên phương Bắc. Tới đời Tùy, Phật giáo được phục hưng, Ngài lại được mời về phiên dịch những bộ Phật Bản Hạnh Tập Kinh, Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh và Khởi Thế Kinh. Tới năm Khai Hoàng thứ 20 (600) thì tịch, thọ 78 tuổi.
Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta): Ngài người Trung Thiên Trúc tới Trung Quốc vào năm Khai Hoàng thứ 10 (590), ở chùa Đại Hưng Thiện tại Tràng An, chuyên việc phiên dịch kinh điển. Tới niên hiệu Võ Đức năm thứ 2 (619) đời Đường thì mất, không rõ tuổi thọ Ngài bao nhiêu. Ngài dịch những bộ Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Kinh (1 quyển), Khởi Thế Nhân Bản Kinh (10 quyển), Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Kinh (1 quyển), Bồ Đề Tư Lương Luận (10 quyển), Kim Cương Bát Nhã Luận (3 quyển).
Chúng Kinh Mục Lục: Để chỉnh lý những kinh điển đã phiên dịch nên có Chúng Kinh Mục Lục xuất hiện. Năm Khai Hoàng thứ 14 (594), Sa môn Pháp Kinh chùa Đại Hưng Thiện, vâng sắc nhà vua soạn bộ Chúng Kinh Mục Lục (15 quyển). Lại năm Nhân Thọ thứ 2 (603) đời vua Dạng Đế, vua sắc Sa môn Ngạn Tôn chùa Đại Hưng Thiện soạn bộ Chúng Kinh Mục Lục (5 quyển). Những bộ trên đều là những sử liệu rất quý giá cho nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Trung Quốc.