Ngài Đạo Xước và Thiện Đạo là hai danh Tăng hoàn thành về giáo nghĩa của Tịnh độ tông, làm cho Tịnh độ tông rất hưng thịnh ở đời Đường. Tịnh độ tông có ba dòng phái khác nhau: 1/ Dòng Đạo Xước, Thiện Đạo, kế thừa về giáo nghĩa của Ngài Đàm Loan. 2/ Dòng Tử Mẫn, trực tiếp kế thừa Tịnh độ giáo ở Ấn Độ. 3/ Dòng Tuệ Viễn, xuất phát từ Lư Sơn. Giáo nghĩa ba dòng phái này có đôi chút khác nhau. (Tham chiếu nơi chương sáu, mục IV)
Đạo Xước (562 - 645): Ngài người Tịnh Châu, tỉnh Sơn Tây, sinh năm đầu niên hiệu Hà Thanh (562) đời Võ Đế Bắc Tề, 14 tuổi đi xuất gia, nghiên cứu kinh Niết Bàn, đã trở thành học giả của Niết Bàn tông. Chợt một hôm Ngài tới chùa Huyền Trung núi Thạch Bích, thấy bia đá có ghi chép về sự tích Ngài Đàm Loan, Ngài rất cảm kích, liền phát nguyện quy y Tịnh độ giáo. Ngài bỏ hẳn sự nghiệp giảng kinh Niết Bàn, mà chỉ noi theo phép thực tiễn tu hành của Tịnh độ, giảng về Quán Kinh (Quán Vô Lượng Thọ Kinh), trước sau hơn 200 lần, mỗi ngày niệm danh hiệu Phật A Di Đà hơn 70.000 biến. Ngài tận lực đem pháp môn tu Tịnh độ giáo hóa cho nam nữ đạo tục ở các địa phương, chế ra tràng hạt để dạy cách trì danh niệm Phật. Tại các vùng nông thôn, Ngài dạy lấy hạt đậu để đếm số niệm danh hiệu, nên có danh từ gọi là “Tiểu đậu niệm Phật”. Ở ba huyện Thái Nguyên, Tấn Dương, Văn Thủy (thuộc Trung bộ tỉnh Sơn Tây), nam nữ từ 7 tuổi trở lên, hết thảy đều biết niệm Phật. Tới năm Trinh Quán thứ 19 (645) đời Đường thì Ngài thị tịch, thọ 84 tuổi. Đệ tử của Ngài là Thiện Đạo, Đạo Phủ, Tăng Diễn. Trước tác của Ngài có rất nhiều, nhưng hiện nay chỉ có An Lạc Tập (2 quyển) thấy còn lưu hành.
Nội dung của An Lạc Tập, trước hết bàn về sự “khó tu” và “dễ tu” của Ngài Long Thọ; và “tự lực”, “tha lực” của Ngài Đàm Loan, rồi đem phán thích về giáo tướng của Phật giáo chia ra hai môn là “Thánh đạo môn” và “Tịnh độ môn”. Người tu về Thánh đạo môn, vì dựa vào kinh điển, phải tự lực tu chứng nên khó khăn; người tu Tịnh độ môn vì dựa vào tha lực (Phật A Di Đà), nên tu chứng được dễ dàng. Kết luận, Ngài khuyên mọi người nên tu Tịnh độ là pháp môn duy nhất, thích ứng với căn cơ của chúng sinh ở thời mạt pháp.
Thiện Đạo (613 - 681): Ngài người Lâm Truy (tỉnh Sơn Tây), sinh năm Đại Nghiệp thứ 9 (613), đời Tùy Dạng Đế. Sau khi đầu Phật xuất gia, Ngài chu du khắp các châu, quận để tìm thầy học đạo. Năm hơn 20 tuổi, tới Ngài Đạo Xước ở Tịnh Châu học về pháp môn Tịnh độ, và được thầy truyền cho áo nghĩa của Tịnh độ tông. Sau khi thầy mất, Ngài về trụ trì chùa Quang Minh và chùa Từ Ân ở Tràng An, không lâu sau khắp hết già trẻ lớn bé, ai ai cũng đều biết niệm Phật. Ngài đã viết được 10 vạn cuốn Kinh A Di Đà, và 300 đồ hình tả cảnh giới Tịnh độ để truyền bá lưu hành ở đời. Tới năm Vĩnh Long thứ 2 (681) đời Cao Tông thì tịch, thọ 69 tuổi. Đệ tử của Ngài là Hoài Cảm, Tịnh Nghiệp. Trước tác của Ngài gồm có Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (4 quyển), Vãng Sinh Lễ Tán (1 quyển), Pháp Sự Tán (2 quyển), Quán Niệm Pháp Môn (1 quyển), Ban Chu Tán (1 quyển), gọi là Ngũ bộ thiếp, hoặc 5 bộ 9 quyển. Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ chia làm bốn phần trọng yếu là Huyền nghĩa phần, Tự phận nghĩa, Định thiện nghĩa và Tán thiện nghĩa, mỗi phần đều có một quyển, đời gọi là “Tứ thiếp sớ”, bao hàm những giáo nghĩa chân tủy của Tịnh độ giáo. Có thể nói Ngài Thiện Đạo là người hoàn thành về giáo nghĩa của Tịnh độ giáo Trung Quốc.
Từ Mẫn (680 - 748): Tên chính là Tuệ Nhật, Ngài người Thái Châu (tỉnh Sơn Đông). Vì được gặp Ngài Nghĩa Tịnh về triều, nên Ngài quyết chí “nhập Trúc cầu Pháp”. Ngài xuất phát từ năm Tràng An thứ 2 (702) đời Võ Tắc Thiên (Võ Hậu), theo đường biển tới Ấn Độ, chu du các nước để cầu pháp, nhân khi tới Bắc Thiên Trúc, được gặp đức Quan Âm thị hiện, trao cho pháp môn tu Tịnh độ. Ngài lưu lại Ấn Độ tất cả 18 năm mới về nước. Sau khi về nước, được vua Huyền Tông tặng tên hiệu là “Từ Mẫn Tam Tạng”. Ngài trước tác bộ Vãng Sinh Tịnh Độ Tập (Từ Mẫn tập) để truyền bá về môn tu Tịnh độ mà Ngài đã lĩnh ngộ được ở Ấn Độ, vì thế nên thành riêng một phái gọi là “dòng Từ Mẫn”. Tuy vậy, nhưng hệ thống này không được thịnh hành như “dòng Thiện Đạo” và giáo nghĩa cũng không có gì đặc sắc.
Ngoài ra còn có Ca Tài, nương vào bộ An Lạc tập của Ngài Đạo Xước mà soạn thành bộ Tịnh Độ Luận. Đệ tử Ngài Thiện Đạo là Hoài Cảm đã soạn bộ Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận (7 quyển). Ngài Pháp Chiếu sáng lập ra hội niệm Phật gọi là “Ngũ Hội Niệm Phật”, và trước tác bộ Ngũ Hội Pháp Sự Tán, dựa theo phương diện âm nhạc để hoằng truyền môn Tịnh độ. Pháp Chiếu thì thừa kế pháp môn tu Tịnh độ của Ngài Thừa Viễn chùa A Di Đà, giáo nghĩa của Ngài cũng chịu ảnh hưởng giáo nghĩa Ngài Thiện Đạo. Sau lại có Thiếu Khang, thành lập Tịnh độ Đạo tràng ở Mục Châu (tỉnh Chiết Giang) để truyền bá về giáo nghĩa của Ngài Thiện Đạo. Vì thế mà môn tu Tịnh độ rất hưng thịnh ở đời Đường, và tín ngưỡng Phật A Di Đà được phổ cập hầu khắp quần chúng xã hội.