Luật Tông
Tên tông: Tông này y cứ vào luật Tứ Phần, nên gọi là “Tứ Phần Luật tông”, gọi tắt là “Luật tông”.
Giáo nghĩa: Yếu nghĩa của Luật tông bàn về “Giới”. Trong giới lại chia ra “Chỉ trì giới” và “Tác trì giới”. Chỉ trì giới là không làm các điều ác, tức “Chư ác mạc tác”, Tác trì giới là vâng làm các điều thiện, tức là “Chúng thiện phụng hành”.
Giáo học của Phật giáo được cấu thành bởi ba môn học là “Giới học”, “Định học” và “Tuệ học”. Phật giáo Trung Quốc vì nghiên cứu về “Tuệ học”, nên các tông Tam Luận, Thiên Thai, Hoa Nghiêm được thành lập, vì tu tập về “Định học” nên có Thiền tông ra đời, và nương theo vào “Giới học” để tu trì nên có Luật tông xuất hiện.
Về Giới học ở Ấn Độ thì nương vào năm bộ luật khác nhau của năm Bộ phái là Đàm Vô Đức (Dharma guptaka), Tất Bà Đa (Sarvàstivàda), Di Sa Tắc (Mahisàsaka), Ca Diếp Di (Kàsyapiya) và Ma Ha Tăng Kỳ (Mahasanghika). Trong năm bộ luật của các Bộ phái trên đã có bốn bộ được truyền tới Trung Quốc, tức quảng luật là Tứ Phần Luật (60 quyển) của Bộ phái Đàm Vô Đức, do Ngài Phật Đà Da Xá đời Diêu Tần dịch, về Thập tụng luật (61 quyển) của Bộ phái Tát Bà Đa do Ngài Phất Nhã Đa La và Đàm Ma Lưu Chi cùng dịch, Ngũ Phần Luật (30 quyển) của Bộ phái Di Tác Sa do Ngài Phật Đà Thập đời Lưu Tống dịch, Ma Ha Tăng Kỳ Luật (40 quyển) của Bộ phái Ma Ha Tăng Kỳ do Ngài Pháp Hiển và Phật Đà Bạt Đà La cùng dịch. Còn Giải Thoát Luật của Bộ phái Ca Diếp Di vẫn chưa truyền tới. Trong các bộ luật kể trên, sau khi được dịch ra, thì Tăng đoàn của Trung Quốc căn cứ vào đó mà tổ chức giáo đoàn. Trong đời Ngụy và đời Tấn thì Luật Tăng Kỳ được thịnh hành ở vùng Giang Bắc, Luật Thập Tụng được phát triển ở vùng Giang Nam. Sự thọ giới của giáo đoàn thì căn cứ vào luật Tứ Phần nhưng sinh hoạt của giáo đoàn lại nương vào Luật Tăng Kỳ và Luật Thập Tụng.
Luật Tứ Phần tuy đã được Ngài Phật Đà Da Xá dịch, nhưng vì chưa được hoàn thiện, nên Ngài Pháp Thông đời Bắc Ngụy nhiệt tâm nghiên cứu và giảng giải bộ luật đó, môn đệ của Ngài là Đạo Phú lại nương vào lời thầy giảng mà soạn thành bộ Tứ Phần Luật Sớ, sau môn đệ của Đạo Phú là Tuệ Quang (468 - 537) tận lực hoằng truyền, nên môn học Luật Tứ Phần phát triển mạnh. Môn đệ của Tuệ Quang là Đạo Vân, Đạo Huy và môn đệ của Đạo Vân là Trí Thủ, môn đệ của Đạo Huy là Hồng Tuân kế thừa, đều là những nhân vật hoạt động về Luật học ở đời Tùy. Tới đời Đường “Tứ phần luật tông” được hoàn toàn thành lập, và chia thành ba phái là “Nam Sơn tông”, “Tướng Bộ tông” và “Đông Tháp tông”.
Nam Sơn tông: Đạo Tuyên (576 - 667), vị sáng lập ra Nam Sơn luật tông. Ngài người huyện Đan Đồ, tỉnh Giang Tô, sinh năm Khai Hoàng thứ 16 (596) đời Tùy, nương theo Ngài Trí Thủ (567 - 635) ở Tràng An thọ giới Cụ túc, chuyên học về luật. Vì lúc đầu Ngài trụ trì chùa Phong Đức núi Chung Nam, nên có tên là “Nam Sơn luật sư”. Sau Ngài vâng sắc nhậm chức Thượng tọa chùa Tây Minh ở Tràng An để truyền bá về Luật học. Tới năm Càn Phong thứ 2 (667) thì tịch, thọ 72 tuổi. Ngài là người hoàn thành về giáo nghĩa của Luật tông, và hệ thống luật học của Ngài gọi là “Nam Sơn tông”. Lối phán thích về giáo tướng của Phật giáo như trên là do Ngài chế định, để nêu rõ địa vị trọng yếu của Luật học. Trong ba phái, Tướng Bộ tông thì nương vào Luận Thành Thực để bàn về giới thể, và kết luận giới thể là “Phi sắc phi tâm”; Đông Tháp tông, nương vào Luận Đại Tỳ Bà Sa của Hữu bộ, và Luận Câu Xá, chủ trương giới thể thuộc về “Sắc pháp”, đều thuộc về “Tiểu thừa luật”. Nhưng Đạo Tuyên vì ảnh hưởng về giáo nghĩa của “Pháp tướng” nên Ngài phán định rằng, về hình thức của Tứ Phần Luật thuộc về Tiểu thừa giáo, nhưng về tinh thần thuộc về Đại thừa. Vì lẽ khi thọ giới phải nương vào ngôn ngữ, nên giới thể trở thành chủng tử của thức A lại da. Như vậy hệ thống Nam Sơn tông của Ngài thuộc Đại thừa giáo.
Trước tác của Ngài gồm có Tứ Phần Luật Hành Sự Sao (3 quyển), Tứ Phần Yết Ma Sớ (4 quyển), Tứ Phần Giới Bản Sớ (4 quyển), Thập Tỳ Ni Nghĩa Sớ (4 quyển), Tỳ Kheo Ni Nghĩa Sao (3 quyển), là các bộ thuộc Luật học. Ngoài ra, Ngài còn soạn bộ Đại Đường Nội Điển Lục (10 quyển) để chỉnh lý về kinh điển, Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành (4 quyển) và Quảng Hoằng Minh Tập (30 quyển), để tuyên dương hộ trì Phật giáo, Tục Cao Tăng Truyện (30 quyền), Thích Thị Lược Phổ (1 quyển), Thích Ca Phương Chí (5 quyển), Tam Bảo Cảm Thông Lục (3 quyển), đều là những bộ có giá trị về sử học của Phật giáo.
Đệ tử thượng túc của Ngài là Đại Từ, Văn Cương, Chu Tú, Dong Tế v.v., đều tận lực hoằng truyền về luật. Ngoài ra sư đệ đồng môn của Ngài là Đạo Thế, đệ tử Ngài Trí Thủ, thì trước tác bộ Tứ Phần Luật Thảo Yếu và Tứ Phần Ni Sao, cùng bộ Pháp Uyển Châu Lâm (100 quyển) để lưu truyền ở đời.
Trong ba phái Luật tông trên, Nam Sơn tông thuộc hệ thống Ngài Đạo Tuyên được thịnh hành hơn và truyền bá sâu rộng.
Tướng Bộ tông: Sơ Tổ của Tướng Bộ tông là Ngài Pháp Lệ (569 - 635), trụ trì ở chùa Nhật Quang thuộc Tướng Châu (tỉnh Hà Nam), biệt lập thành một phái Luật học riêng, nên có tên là Tướng Bộ tông. Ngài là pháp tông của Hồng Tuân, hơn Đạo Tuyên 27 tuổi. Trước tác của Ngài có Tứ Phần Luật Sớ và Yết Ma Sớ. Môn đệ của Ngài là Mãn Ý, Hoài Tố v.v. Sau Hoài Tố lại là khai tổ của Đông Tháp tông.
Đông Tháp tông: Khai tổ của Đông Tháp tông là Hoài Tố (624 - 697). Lúc đầu theo học Ngài Huyền Trang, sau lại theo Ngài Pháp Lệ học về luật, nhưng không vừa ý với học thuyết của thầy, Ngài liền trước tác bộ Tứ Phần Luật Khai Tông Ký để phát biểu học thuyết mới, lấy chùa Sùng Phúc Đông Tháp làm căn cứ địa để hoằng truyền về luật, lập thành một phái riêng, gọi là Đông Tháp tông. Môn đệ của Ngài là Pháp Thận kế thừa. Nhưng Đông Tháp tông cũng như Tướng Bộ tông, lưu truyền không được bao lâu rồi bị suy tàn, chỉ còn có Nam Sơn tông là truyền vĩnh viễn ở đời.
Nghĩa Tịnh (635 - 713): Ngài người Tế Châu (tỉnh Sơn Đông), việc phiên dịch của Ngài cũng quan hệ mật thiết với Luật tông. Lúc đầu Ngài nghiên cứu về luật sớ của Đạo Tuyên luật sư, kiêm tu cả giáo học khác. Vì Ngài có đại chí muốn “nhập Trúc cầu Pháp”, nên đã xuất phát từ năm Hàm Hanh thứ 2 (671) đời Cao Tông, theo đường biển tới Ấn Độ, chu du khắp các nước tầm đạo hơn 20 năm trời rồi về nước. Ngài thỉnh được rất nhiều nguyên văn Phạm bản, và dịch ra được 68 bộ 290 quyển. Những kinh điển của Ngài dịch phần lớn thuộc về các bộ luật của Bộ phái Hữu bộ, như Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da (50 quyển), Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bật Số Ni Tỳ Nại Da (20 quyển), Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (40 quyển), Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Ni Đà Na Mục Đắc Ca (10 quyển), Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp (20 quyển). Nhưng các bộ luật này, vì ra đời sau khi Luật tông đã thành lập, nên kém phần ảnh hưởng sâu rộng. Ngoài ra, Ngài còn dịch các bộ Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật Kinh, Đại Khổng Tước Vương Chú Kinh và trước tác những sách rất giá trị như Đại Đường Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (2 quyển), Nam Hải Ký Quy Truyện (4 quyển), ghi chép về trạng thái Phật giáo Ấn Độ đương thời.