Thiền tông được thành lập từ thời Ngài Bồ Đề Đạt Ma tới Trung Quốc ở đời Lương (tham chiếu chương sáu mục III và mục IV). Rồi Ngài Đạt Ma truyền tâm ấn cho đệ nhị tổ Tuệ Khả (? - 593). Tuệ Khả kế thừa và hết sức truyền bá về tư tưởng Thiền học cho tới đầu đời Tùy thì tịch. Đệ tử của Ngài là đệ tam tổ Tăng Xán (? - 606), Tăng Xán lại truyền cho đệ tử là đệ tứ tổ Đạo Tín (580 - 651), Đạo Tín truyền cho đệ ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Pháp Dong, rồi truyền đến đệ lục tổ Tuệ Năng và Thần Tú. Tuệ Năng và Thần Tú đều là những nhân vật trọng yếu truyền bá Thiền học ở đời Đường, và hoàn thành về giáo nghĩa của Thiền tông.
Kế tiếp còn có rất nhiều cao tăng thạc đức, nên Thiền tông rất hưng thịnh. Cuối đời Đường các tông khác đều suy vi, nhưng chỉ có Thiền tông là vẫn phát triển rực rỡ.
Pháp Dong (594 - 657): Ngài truyền bá về thiền Ngưu Đầu vào đầu đời Đường. Lúc đầu, Ngài nghiên cứu về Tam Luận tông, lại thông Nho học, sau lập một Thiền thất ở chùa U Tây núi Ngưu Đầu, chuyên tu trì Thiền định 20 năm trời, đức của Ngài cảm hóa đến cả loài cầm thú. Sau gặp đệ ngũ tổ Hoằng Nhẫn, được Ngài truyền cho Thiền pháp, trở thành một phái thiền mới, gọi là thiền Ngưu Đầu. Đó là bước đầu tiên phân phái của Thiền tông. Phái này truyền tới nhị tổ Trí Nghiêm (600 - 677), tam tổ Tuệ Phương (629 - 695), tứ tổ Pháp Trì (635 - 702), ngũ tổ Trí Uy (653 - 729), lục tổ Tuệ Trung (683 - 769), rồi dần dần đi tới chỗ suy tàn.
Hoằng Nhẫn (602 - 675): Ngũ tổ Hoằng Nhẫn sau khi được thầy truyền tâm ấn, Ngài lui về núi Ngũ Tổ, chuyên tu tập thiền định, vua Thái Tông đã ba lần cho sứ giả thỉnh Ngài tới cung điện, nhưng Ngài đều từ chối không chịu ra. Đệ tử của Ngài là Tuệ Năng, Thần Tú, Tuệ An, Huyền Trạch v.v., nhưng trong đó có Thần Tú và Tuệ Năng là tuấn kiệt. Hai vị này là đại biểu cho Thiền tông ở đời Đường, và chia thành hai giới tuyến để truyền bá về thiền. Ngài Thần Tú và hệ thống của Ngài truyền bá tư tưởng Thiền học ở phương Bắc, lấy hai kinh thành Tràng An và Lạc Dương làm trung tâm; Ngài Tuệ Năng và hệ thống của Ngài truyền bá Thiền tông ở phương Nam, lấy tỉnh Hồ Nam và Giang Tây làm căn cứ địa trung tâm. Vì thế, nên có Bắc thiền và Nam thiền. Bắc thiền thuộc lối tiệm tu tiệm chứng, Nam thiền theo phương pháp đốn tu, đốn ngộ, nên có danh từ “Nam đốn Bắc tiệm”.
Thần Tú (606 - 706): Sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn trao truyền tâm ấn, Ngài lui về trụ trì chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu. Vì Thiền phong của Ngài cao siêu, nên học đồ có tới hơn 3.000 người. Ngài tịch năm Thần Long thứ 2 (706) tại chùa Thiên Cung ở Lạc Dương, được tặng tên hiệu là “Đại Thông Thiền Sư”. Đệ tử của Ngài là Phả Tịch, Nghĩa Phúc và Tuệ Phúc.
Nghĩa Phúc (658 - 736): Ngài được nghe biết Ngài Thần Tú ở Kinh Châu, liền xin nhập môn theo học về thiền. Sau khi thầy mất, Ngài thường đi giáo hóa ở các nơi, trụ trì hai chùa Cảm Hóa ở núi Chung Nam và chùa Từ Ân ở Tràng An.
Phả Tịch (651 - 739): Ngài cũng được thầy truyền pháp ở chùa Ngọc Tuyền Kinh Châu. Sự hoằng hóa của Ngài cũng ảnh hưởng sâu rộng không kém thầy. Giữa đời Đường, sau khi Nghĩa Phúc và Phả Tịch mất, thì Bắc thiền dần suy, Nam thiền dần tiến lên phương Bắc, lấn át hẳn địa vị của Bắc thiền.
Tuệ Năng (638 - 713): Lục tổ Tuệ Năng là sơ tổ của Nam thiền. Khi còn nhỏ, Ngài làm nghề bán củi trong chợ, nhân một lần đang đi giữa đường, lắng nghe tiếng tụng Kinh Kim Cương Bát Nhã, do nhân duyên đó, Ngài liền tới nơi của ngũ tổ Hoằng Nhẫn xin nhập môn tu thiền. Trong hàng đệ tử, lúc đầu Ngài là người địa vị thấp kém nhất, nhưng sau vì giác ngộ hơn các bạn đồng môn, nên được thầy chính truyền cho y bát. Sau khi đắc truyền, Ngài trở về cố hương, ở chùa Bảo Lâm thuộc Thiều Châu (tỉnh Quảng Đông), tận lực truyền bá Thiền tông ở phương Nam. Môn đệ anh tuấn của Ngài có rất nhiều, nhưng trong đó có các Ngài Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Hà Trạch Thần Hội, Vĩnh Gia Huyền Giác, Nam Dương Tuệ Trung, Pháp Hải là những nhân vật trọng yếu. Pháp Hải thường theo thầy ghi chép những “Thiền ngữ, ngôn hành” của Ngài rồi soạn thành bộ “Tông bảo”, bộ này sau được sửa chữa lại, và hiện nay gọi là Pháp Bảo Đàn Kinh. Ngài Hành Tư (? - 740), sau khi thấu hiểu được thiền pháp của thầy, lui về tĩnh tu ở núi Thanh Nguyên (tỉnh Giang Tây), nên gọi là Thanh Nguyên Hành Tư. Hoài Nhượng (677 - 744), sau khi được thầy truyền cho Thiền pháp rồi lui về ở chùa Bát Nhã núi Nam Nhạc (tỉnh Hồ Bắc), hoằng dương thiền phong của thầy, nên có tên là Nam Nhạc Hoài Nhượng. Thần Hội (? - 760), sau khi được thầy truyền Thiền pháp, liền đi về phương Bắc, trụ trì chùa Hà Trạch ở Lạc Dương, nên gọi là Hà Trạch Thần Hội. Huyền Giác (665 - 713), người huyện Vĩnh Gia, Ôn Châu (tỉnh Chiết Giang), lúc đầu học về giáo nghĩa Thiên Thai tông, sau gặp Ngài Lục Tổ và được truyền tâm ấn, Ngài soạn bộ Vĩnh Gia Tập và Chứng Đạo Ca để truyền về phong thái của Thiền, và được gọi là Vĩnh Gia Huyền Giác. Tuệ Trung (? - 775), được nối Thiền pháp rồi, Ngài lui về ở chùa núi Bạch Nhai, thuộc Nam Dương, vua Túc Tông, Đại Tông đều quy y với Ngài, và được tặng tên hiệu là “Đại Chứng Thiền Sư”.
Như trên đã trình bày về hệ thống thiền Nam tông của Ngài Tuệ Năng. Hệ thống này lúc đầu chỉ truyền bá ở phương Nam, sau dần dần tiến lên phương Bắc, áp đảo hẳn thế lực của thiền Bắc tông. Tuy vậy nhưng sau chỉ có hệ thống của Ngài Nam Nhạc và Thanh Nguyên là thịnh hơn. Ngoài ra, các hệ thống khác chỉ thịnh hành trong nhất thời. Hệ thống Nam Nhạc sau lại phát sinh ra hai dòng phái là Lâm Tế và Quy Ngưỡng. Hệ thống Thanh Nguyên cũng phát sinh ra ba phái là Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn. Trong sử gọi là “Thiền môn ngũ gia”.
Hệ thống Nam Nhạc: Đệ tử xuất chúng của Ngài Nam Nhạc là Mã Tổ Đạo Nhất (709 - 788), truyền bá thiền ở vùng Giang Tây (tỉnh Giang Tây), nên được gọi là thiền Giang Tây. Đệ tử của Mã Tổ là Hoài Hải (720 - 814) ở núi Bách Trượng thuộc Hồng Châu (Giang Tây), trước tác bộ Bách Trượng Thanh Quy để quy định về pháp chế của Thiền viện. Sau Ngài Bách Trượng thì hệ thống Nam Nhạc phân ra hai phái là Lâm Tế và Quy Ngưỡng. Tức là đệ tử của Ngài Hy Vận núi Hoàng Nghiệt (Giang Tây) là Nghĩa Huyền (? - 867), trụ trì viện Lâm Tế, Chấn Châu (tỉnh Hà Bắc), lập ra Lâm Tế tông, và Ngài Linh Hựu (771 - 853), ở núi Quy Sơn thuộc Đàm Châu (tỉnh Hồ Nam), đệ tử của Linh Hựu là Tuệ Tịch ở núi Ngưỡng Sơn thuộc Viên Châu (tỉnh Giang Tây) khai sáng ra Quy Ngưỡng tông. Hai tông này tận lực truyền bá thiền ở phương Bắc.
Hệ thống Thanh Nguyên: Môn hạ anh tuấn của Ngài Thanh Nguyên có rất nhiều, nhưng trong đó có Thạch Đầu Hà Thiên (700 - 790) ở Hồ Nam là người xuất chúng. Đệ tử của Ngài Thạch Đầu là Duy Nghiễm (745 - 828), ở Dược Sơn thuộc Lệ Châu (Hồ Nam) và đệ tử của Duy Nghiễm là Đàm Thành (783 - 814), đệ tử của Đàm Thành là Lương Giới (807 - 869) ở Động Sơn, sau Lương Giới lại có Ngài Bản Tịch (840 - 901) ở núi Tào Sơn, nên phát sinh ra Tào Động tông. Căn cứ trung tâm truyền bá của tông này ở vùng Giang Tây.
Thiên Hoàng Ngô Đạo, cũng là đệ tử của Ngài Thạch Đầu, truyền thiền pháp cho đệ tử là Long Đàm Sùng Tín, Sùng Tín lại truyền cho đệ tử là Đức Sơn Huyền Giám (780 - 865), rồi truyền tới Tuyết Phong Nghĩa Tồn (822 - 908). Nghĩa Tồn truyền cho đệ tử là Văn Yển (? - 949) ở núi Vân Môn (tỉnh Quảng Đông) lập ra tông Vân Môn. Đệ tử Nghĩa Tồn là Huyền Diệu (837 - 908), Huyền Diệu truyền cho đệ tử là La Hán (867 - 928), La Hán truyền cho Thanh Lương Văn Ích (885 - 958). Ngài Văn Ích lập ra Pháp Nhãn tông ở Kim Lăng (Nam Kinh), sau được tặng tên hiệu là “Pháp Nhãn Đại sư”. Hệ thống này cứ tiếp nối truyền mãi mãi.
Hệ thống thiền Nam tông của Ngài Tuệ Năng, như trên đã lược kể thì phát triển mạnh mẽ từ sau thời Thịnh Đường. Trong đó hệ thống Thanh Nguyên và Nam Nhạc thì phát triển ở vùng Giang Tây và Hồ Nam. Lâm Tế tông thì phát triển ở phương Bắc, Pháp Nhãn tông thịnh đạt ở Kim Lăng. Sau Lâm Tế tông lại phát sinh ra hai phái là Hoàng Long và Dương Kỳ, nên trong lịch sử gọi tổng quát về sự truyền thừa của Thiền tông là “Ngũ gia thất tông”. Tức là Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Lâm Tế, Pháp Nhãn gọi là “Ngũ gia”, thêm vào hai tông Hoàng Long và Dương Kỳ gọi là “Thất tông”.