Tư tưởng giáo học Du Già, Duy thức của Phật giáo Đại thừa xuất hiện từ thời Ngài Vô Trước và Thế Thân ở Ấn Độ, đã được lưu hành ở thời đại Nam Bắc triều. Ở Bắc triều, nương vào Thập Địa Kinh Luận của Ngài Bồ Đề Lưu Chi và Lặc Na Ma Đề dịch, mà trở thành Địa Luận tông, ở Nam triều, dựa vào Nhiếp Đại Thừa Luận của Ngài Chân Đế dịch mà thành lập Nhiếp Luận tông. Nhưng tới đời Đường, sau khi Ngài Huyền Trang lưu học ở Ấn Độ quy triều, truyền bá về giáo học của Ngài Hộ Pháp và Giới Hiển lại thành lập ra hai tông Pháp Tướng và Câu Xá.
Pháp Tướng tông
Tên tông: Tông này phán quyết về tính, tướng của chư pháp, nên gọi là Pháp Tướng tông, và chủ trương các pháp đều do thức phát sinh, nên cũng gọi là Duy thức tông.
Giáo nghĩa: Tông này đem vạn pháp chia ra 100 pháp, trong 100 pháp lại chia ra năm vị: Tâm vương có 8 pháp, Tâm sở hữu pháp có 51 pháp, Sắc pháp có 11 pháp, Tâm bất tương ưng hành pháp có 24 pháp và Vô vi pháp có 6 pháp, nên gọi là “Ngũ vị bách pháp”. Và quán tưởng các pháp này đều do duy thức biến hiện, không có một pháp nào là ngoài tâm thức mà có, nếu ngộ được pháp quán đó, tức là lìa được vọng tính, chứng được chân lý “Trung đạo Duy thức”.
Giáo phán: Tông này đem giáo tướng của Phật giáo chia thành “Tam thời giáo”.
Tông này dựa vào nhiều bộ kinh luận, nhưng lấy Giải Thâm Mật Kinh (5 quyển) do Ngài Huyền và Du Già Sư Địa Luận (100 quyển) cũng do Ngài Huyền Trang dịch, làm giáo nghĩa căn bản. Về truyền thừa của tông này, lấy Ngài Di Lặc làm Sơ Tổ ở Ấn Độ, và Ngài Huyền Trang là Sơ Tổ của Pháp Tướng tông ở Trung Quốc, theo như biểu đồ trên.
Huyền Trang (600 - 664): người Lạc Châu (tỉnh Hà Nam), sinh năm Khai Hoàng thứ 20 (600) đời Tùy Văn Đế, xuất gia năm 13 tuổi, ở chùa Tịnh Độ. Sau khi xuất gia, Ngài chu du khắp các châu huyện, nghiên cứu về Niết Bàn, Tỳ Đàm và Nhiếp Luận, nhưng vì muốn nghiên cứu về giáo nghĩa mới của Phật giáo, nên Ngài quyết chí “nhập Trúc cầu Pháp”, Ngài xuất phát từ năm Trinh Quán thứ 3 (629), nương theo đường phía Bắc dải núi Thiên Sơn trải bao gian nan, nguy hiểm mới tới được Ấn Độ. Đương thời, chùa Na Lan Đà (Nalanda) là một đạo tràng căn bản của Giáo học Phật giáo Đại thừa, và là nơi quy tụ nhiều danh tăng thạc đức, mà vị chỉ đạo là Luật sư Giới Hiển. Ngài Huyền Trang liền xin nhập môn Ngài, nghiên cứu về áo nghĩa của Du già, Duy thức. Sau Ngài lại tuần du khắp các nước Ấn Độ, và sưu tầm được rất nhiều nguyên văn Phạm bản, các kinh luận của Đại thừa, Tiểu thừa, và các triết học của ngoại đạo, gồm 659 bộ. Ngoài ra còn thỉnh được nhiều Xá lợi Phật, và rất nhiều hình tượng Phật. Sau Ngài đi theo đường phía Nam của dải núi Thiên Sơn để quy triều. Tới năm Trinh Quán thứ 19 (645), Ngài về tới Tràng An. Như vậy sự nghiệp cầu pháp của Ngài mất 17 năm. Vua Thái Tông liền đón Ngài về chùa Hoằng Phúc và sau lại thiết lập viện phiên dịch ở chùa Từ Ân để phiên dịch kinh điển do Ngài đã thỉnh. Sau vua lại thỉnh Ngài ở chùa Tây Minh và cung Ngọc Hoa, cũng là nơi để Ngài phiên dịch kinh luận. Tới năm đầu niên hiệu Lâm Đức (664) đời Cao Tông, Ngài tịch ở cung Ngọc Hoa, thọ 63 tuổi. Vua Cao Tông bãi triều ba ngày để làm lễ Quốc tang.
Trong 20 năm, sự nghiệp phiên dịch vĩ đại của Ngài, cũng như Ngài La Thập là hai bậc Thánh Tăng dịch kinh bất hủ của Phật giáo. Những kinh điển mà Ngài đã dịch được gồm có 76 bộ, 1349 quyển. Trong đó có những bộ chủ yếu là Đại Bát Nhã Ba La Mật Kinh (600 quyển), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Xưng Tán Tịnh Độ Phật Tiếp Thụ Kinh, Dược Sư Bản Nguyện Công Đức Kinh, Bồ Tát Giới Bản, Du Già Sư Địa Luận (100 quyển) của Ngài Di Lặc (Maitreya), Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập Luận (7 quyền) và Nhiếp Đại Thừa Luận của Ngài Vô Trước (Asanga), Biện Trung Biện Luận (3 quyển), Duy Thức Nhị Thập Luận Tụng (1 quyển), Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận (1 quyển), Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận (1 quyển), Câu Xá Luận (30 quyển) của Ngài Thế Thân (Vasubandhu), Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (10 quyển) của Ngài Vô Tính (Asvabhàva), Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (16 quyển) của Ngài An Tuệ (Sthiramati), Nhân Minh Chính Lý Môn Luận Bản (1 quyển) của Ngài Trần Na (Dignaga), Nhân Minh Nhập Chính Lý Luận (1 quyển) của Ngài Thương Yết La Chủ (Sankarásvàmin), Đại Thừa Chưởng Chân Luận (2 quyển) của Ngài Thanh Biện (Bhavaviveka), A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (200 quyển), Phát Trí Luận (20 quyển), Pháp Uẩn Tức Luận (20 quyển), Tập Dị Môn Túc Luận (20 quyển), Thức Thân Túc Luận (16 quyển), Phẩm Loại Túc Luận (18 quyền), Giới Thân Túc Luận (3 quyển) của Hữu Bộ, Dị Bộ Tông Luân Luận của Ngài Thế Hữu (Vasumitra), Thuận Chính Lý Luận của Ngài Chúng Hiển (Samhabhadra) (80 quyền), Nhập A Tỳ Đạt Ma Luận (2 quyển) của Ngài Ngộ Nhập (Tác Kiên Địa La, Skandila), Thắng Tông Thập Cú Nghĩa Luận của Ngài Tuệ Nguyệt (Maticandra), Thành Duy Thức Luận của Ngài Hộ Pháp (Dharmapàla).
Sự nghiệp phiên dịch của Ngài được triều đình bảo hộ, coi là một sự nghiệp của quốc gia, nên dịch trường được tổ chức rất quy mô trật tự và có rất nhiều các bậc danh Tăng và các quan tham gia. Lối dịch thuật của Ngài rất trung thành với nguyên văn, chữ nào nghĩa ấy, vì thế trong lịch sử dịch kinh, kể từ Ngài Huyền Trang về sau gọi là “Tân dịch”, còn những kinh điển được dịch thuật trước thời Ngài gọi là “Cựu dịch”.
Ngoài sự nghiệp phiên dịch vĩ đại như trên, Ngài còn soạn bộ Đại Đường Tây Vực Ký (12 quyển) để ghi chép tất cả trạng thái tôn giáo, địa lý, lịch sử và phong tục của Ấn Độ đương thời, cũng như bộ Phật Quốc Ký của Ngài Pháp Hiển và Nam Hải Ký Quy của Ngài Nghĩa Tịnh, đều là những sử liệu quan trọng cho việc khảo cứu tình trạng của Phật giáo Ấn Độ.
Ở Tràng An, giáo đoàn của Ngài rất có thế lực, môn đệ đông tới mấy ngàn người. Tựu trung có Khuy Cơ, Viên Trắc, Phả Quang, Pháp Bảo, Thần Thái, Tĩnh Mại, Tôn Triết, Đạo Chiêu là những nhân vật quan trọng. Đệ tử cao nhất của Ngài là Khuy Cơ tức “Từ Ân Đại sư” cùng với Ngài lập ra Pháp Tướng tông để truyền bá tư tưởng Duy thức.
Khuy Cơ (632 - 682): Ngài người Tràng An, thường giúp việc phiên dịch của thầy ở chùa Đại Từ Ân, và riêng Ngài chú thích rất nhiều kinh luận. Ngài tịch năm đầu niên hiệu Vĩnh Thuận (682) đời Cao Tông, thọ 51 tuổi, tịch sau Ngài Huyền Trang 18 năm. Vì Ngài trụ trì ở chùa Từ Ân để hoằng truyền về giáo nghĩa Duy thức, nên được gọi là “Từ Ân Đại sư”. Đặc biệt, Ngài cùng thầy đã dịch ra bộ Thành Duy Thức Luận, là bộ luận tổng hợp về giáo nghĩa Duy thức của Ngài Hộ Pháp. Bộ luận này và bộ Giải Thâm Mật Kinh cùng Du Già Sư Địa Luận là thánh điển căn bản của Pháp Tướng tông. Ngài còn trước tác nhiều bộ luận để phát huy chân nghĩa của Duy thức như Thành Duy Thức Luận Thuật Ký (20 quyển), Thành Duy Thức Luận Biệt Sao (3 quyển), Thành Duy Thức Luận Khu Yếu (4 quyển), Duy Thức Tam Thập Tụng Lược Thích (1 quyển), Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Ký (3 quyển), Duy Thức Luận Khai Phát (2 quyển), Du Già Sư Địa Luận Lược Toản (16 quyển), A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận Thuật Ký (10 quyển), Đại Thừa Pháp Nghĩa Lâm Chương (7 quyển), Nhân Minh Luận Đại Sớ (3 quyển), Huyền Trang Tam Tạng Bồ Tát Giới Pháp (1 quyển), Dị Bộ Tông Luân Luận Thuật Lý (2 quyển), Pháp Hoa Kinh Huyền Tán (10 quyển), A Di Đà Kinh Sớ (1 quyển), Di Lặc Thượng Sinh Kinh Sớ (2 quyển) và Kim Cương Bát Nhã Kinh Hội Thích (4 quyển) v.v.
Viên Trắc (613 - 696): Ngài người nước Tân La (Cao Ly), 15 tuổi tới Tràng An du học, sau nhập môn Ngài Huyền Trang, rồi vâng lệnh trụ trì chùa Tây Minh, giảng về Du Già Sư Địa Luận và Thành Duy Thức Luận, nhận được sự ưu đãi của Võ Tắc Thiên. Ngài trước tác bộ Thành Duy Thức Luận Sớ và Giải Thâm Mật Kinh Sớ v.v. Nhưng vì học thuyết của Ngài khác, nên không thuộc vào hệ thống “Từ Ân Đại sư”. Đệ tử của Ngài là Đạo Chứng, soạn ra bộ Thành Duy Thức Luận Củng Yếu để kế truyền.
Tuệ Chiểu (650 - 714): Tuệ Chiểu và đệ tử của Tuệ Chiểu là Trí Chu (668 - 723), kế tiếp hệ thống của Ngài Từ Ân. Tuệ Chiểu được theo học Ngài Huyền Trang và Từ Ân sau ở chùa Đại Vân thuộc Truy Châu (tỉnh Sơn Đông), nên có tên là Truy Châu Đại sư. Ngài trước tác bộ Thành Duy Thức Liễu Nghĩa Đăng, chủ trương về giáo nghĩa chính của Ngài Từ Ân, chống lại học thuyết của Viên Trắc và Đạo Chứng. Ngài Trí Chu soạn bộ Thành Duy Thức Diễn Bí để giải thích bộ Thành Duy Thức Thuật Ký của Ngài Từ Ân. Ba bộ Thành Duy Thức Diễn Bí, Thành Duy Thức Khu Yếu và Liễu Nghĩa Đăng đều là những tác phẩm trọng yếu cho việc nghiên cứu Duy thức. Duy thức tông này rất thịnh hành ở thời Thịnh Đường, nhưng tới cuối đời Đường thì dần dần bị suy kém.
Câu Xá tông
Tên tông: Tông này y cứ vào Luận Câu Xá làm Thánh điển căn bản, nên gọi là Câu Xá tông.
Giáo nghĩa: Đem vạn pháp trong vũ trụ chia làm “Hữu vi pháp” và “Vô vi pháp”. Trong hữu vi và vô vi lại chia thành năm vị, trong năm vị có 75 pháp, theo như biểu sau:
Tông này y cứ vào nhiều kinh luận thuộc “Tiểu thừa bộ”, nhưng lấy bộ Luận Câu Xá 30 quyển do Ngài Huyền Trang dịch làm giáo nghĩa căn bản. Nội dung bộ luận này gồm có chín phẩm: Giới phẩm, Căn phẩm, Thế gian phẩm, Nghiệp phẩm, Thụy miên phẩm, Thánh hiền phẩm, Trí phẩm, Định phẩm và Phá ngã phẩm. Giới phẩm và Căn phẩm thì thuyết minh về thể, dụng của chư pháp; Thế gian phẩm, Nghiệp phẩm, Thụy miên phẩm nói về nhân quả và duyên hữu lậu; Thánh hiền phẩm, Trí phẩm và Định phẩm thuyết minh về nhân, quả và duyên của vô lậu thuộc về sự của chư pháp; Phá ngã phẩm bàn rõ về lý vô ngã, quy tụ về giáo nghĩa “Tam thể thực hữu, pháp thể hằng hữu” của Hữu bộ.
Vị khai tổ của tông này là Ngài Huyền Trang. Đương thời giáo đoàn của Ngài chia ra hai chúng để nghiên cứu về “Pháp Tướng” và “Câu Xá”. Tựu trung đệ tử của Ngài là Phả Quang, Pháp Bảo và Thần Thái, kế thừa về hệ thống Câu Xá tông. Bộ Luận Câu Xá vốn đã được Ngài Chân Đế dịch từ thời Nam Bắc triều, nhưng không được thịnh hành. Sau khi bộ Luận Câu Xá do Ngài Huyền Trang dịch ra đời thì phong trào nghiên cứu Luận Câu Xá mới thịnh hành. Ngài Phả Quang trước tác bộ Câu Xá Luận Ký, Pháp Bảo và Thần Thái cũng đều trước tác bộ Câu Xá Luận Sớ để truyền bá ở đời. Giáo nghĩa của tông này còn bao hàm cả về giáo nghĩa của Tỳ Đàm tông, vậy nên người muốn nghiên cứu về giáo nghĩa của Tỳ Đàm tông thì nghiên cứu về giáo nghĩa của Câu Xá tông là đủ.