Thiên Thai tông dựa vào Kinh Pháp Hoa để thống nhiếp toàn thể Phật giáo, phát triển ở vùng Giang Nam; Ngài Hiền Thủ (Pháp Tạng) đời Đường cũng nương vào Kinh Hoa Nghiêm để thống lý toàn thể Phật giáo vùng Giang Bắc. Nguồn gốc của Kinh Hoa Nghiêm bắt đầu từ thời đại Ngài Giác Hiền đời Đông Tấn, sau khi Ngài dịch ra bộ Kinh Hoa Nghiêm (60 quyển), (tham chiếu chương năm, mục V), tiếp đến thời Ngài Lặc Na Ma Đề và Bồ Đề Lưu Chi dịch ra bộ Thập Địa Kinh Luận của Thế Thân ở đời Bắc Ngụy. Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh do đức Thích Ca nói ngay sau khi thành đạo, để biểu thị nguyên hình chân lý đã chứng ngộ cho hàng Thập địa Bồ tát, nên nghĩa lý rất cao sâu, huyền diệu. Ngài Thế Thân nương vào một phẩm Thập Địa trong kinh đó mà giải thích thành bộ Thập Địa Kinh Luận. Bộ này sau khi dịch ra, được rất nhiều người nghiên cứu, nên đã trở thành một tông riêng gọi là Địa Luận tông gồm hai học phái là hệ thống của Ngài Tuệ Quang ở Nam Địa, và hệ thống của Ngài Đạo Sủng ở Bắc địa. Hai phái này đều nghiên cứu về giáo học của Kinh Hoa Nghiêm. Trải qua các đời Ngụy, đời Tề, tới đời Đường thì Hoa Nghiêm tông được hoàn toàn thành lập.
Hoa Nghiêm tông
Tên tông: Tông này y cứ vào Kinh Hoa Nghiêm, nên gọi là Hoa Nghiêm tông.
Giáo nghĩa: Chủ trương về lý “Nhất tâm chân như, Pháp giới duyên khởi”, nghĩa là pháp giới vạn hữu đều do nơi nhất tâm của chân tâm bản giác mà sinh ra các pháp giới khác nhau, nên gọi là “Nhất tâm chân như”. Pháp giới có “Sự pháp giới”, “Lý pháp giới”, “Sự Lý vô ngại pháp giới” và “Sự sự vô ngại pháp giới”. Sự pháp giới là những sự sự vật vật sai biệt. Lý pháp giới là lý chân như pháp tính bình đẳng không sai khác. Sự lý vô ngại pháp giới, nghĩa là sự tức là lý, lý tức là sự, lý sự dung thông với nhau, lý tính của chân như là vạn pháp, và đương thể của vạn pháp là chân như. Sự sự vô ngại pháp giới nghĩa là một sự, một vật đều từ pháp tính mà hiển hiện, vì cái lý của pháp tính thì viên dung vô ngại, nên khi hiện ra sự của chư pháp, thì sự cũng như lý đều viên dung vô ngại, vậy nên sự sự vật vật đều viên dung với nhau mà không chướng ngại nhau. Để thuyết minh cái tướng của “Sự sự vô ngại” đó nên lại nói ra cái lý “Thập huyền duyên khởi” và “Lục tướng viên dung”.
Thập huyền duyên khởi:
1. Đồng thời cụ túc tương ứng môn: Nghĩa là hết thảy mọi pháp không có giới hạn ở không gian và thời gian, mà sự sự vật vật vẫn đầy đủ viên dung.
2. Nhất đa tương dung bất đồng môn: Số một bao hàm cả số nhiều, số nhiều lại nhiếp thu số một, nhưng số một vẫn là số một và số nhiều vẫn là số nhiều không cùng nhau.
3. Chư pháp tương tức tự tại môn: Bản thể của chư pháp thì tự do tự tại hòa hợp với nhau, tương tức lẫn nhau, một tức là hết thảy, hết thảy tức là một.
4. Nhân Đà La Vi tế cảnh giới môn: Nhân Đà La là Đế Thích Thiên, trong cung điện của vua Đế Thích mắc tấm màn bằng bảo châu có nhiều mắt lưới, ánh sáng của mỗi bảo châu đó soi rọi lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp cùng dung thông với nhau mà không chướng ngại nhau.
5. Vi tế tương dung an lập môn: Sự vật nhỏ bao dung sự vật lớn, số một bao hàm số nhiều mà không phá hoại lẫn nhau.
6. Bí mật ẩn hiển câu thành môn: Ấn ở bề trong là bí mật, hiển ra bề ngoài là hiển hiện. Vậy lý tương tức tương nhập của chư pháp, phần này thì ở bề trong, phần khác lại biểu hiện ra bề ngoài, trong ngoài đều là một thể.
7. Chư tàng thuần tạp cụ túc môn: Chư tàng tức là chư hành, thuần nghĩa là một, tạp là nhiều, đó cũng là nghĩa một tức là hết thảy, hết thảy tức là một.
8. Thập thế cách pháp dị thành môn: Trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, đều bao hàm có ba đời nên thành chín đời, chín đời này lại dung thông với nhau, tương tức, tương nhập lẫn nhau trở thành toàn thể của một đời. Đó là thập thể tự tại dung thông với nhau.
9. Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn: Duy tâm là Như Lai tạng, tự tính thanh tịnh tâm. Nghĩa là duy ở “Nhất tâm” mà hay tạo thành được mọi pháp.
10. Thác sự hiển pháp sinh giải môn: Lý nhất đa tương tức thì hoàn toàn hiển hiện rõ ràng nơi sự sự vật vật, không cần phải nương vào thí dụ cũng hiểu được. (Theo Ngũ Giáo Chương của Ngài Hiền Thủ).
Lục tướng: Lục tướng là “Tổng tướng”, “Biệt tướng”, “Đồng tướng”, “Dị tướng”, “Thành tướng” và “Hoại tướng”. Tổng tướng là tổng quát toàn thể các bộ phận, như số một bao hàm số nhiều. Biệt tướng là các bộ phận để cấu thành toàn thể, như số nhiều không phải là số một. Đồng tướng là các tướng đều cùng điều hòa với nhau mà thành lập, không tương phản lẫn nhau. Dị tướng là mọi thành phần của mỗi tướng đều khác. Thành tướng là khi toàn thể, bao hàm mọi thành phần của biệt tướng. Hoại tướng là khi biệt tướng tuy tạo thành tổng tướng, nhưng tự pháp của nó cũng không mất. Tổng tướng, Đồng tướng và Thành tướng là môn “Viên dung” (bình đẳng); Biệt tướng, Dị tướng, Hoại tướng là môn “Hàng bá” (sai biệt), vạn hữu trong vũ trụ tuy có thiên hình vạn trạng khác nhau, nhưng không ngoài hai môn “Bình đẳng” và “Sai biệt”. “Nhất tâm chân như”, “Thập huyền duyên khởi” và “Lục tướng” là giáo nghĩa căn bản của tông này.
Giáo phán: Tông này đem giáo tướng trong một đời thuyết pháp của Phật phán thích làm năm giáo và mười tông như sau:
Năm giáo
1. Tiểu thừa giáo (giáo lý nói về “Nhân không pháp hữu”).
2. Đại thừa thủy giáo (giáo lý nhập môn của Đại thừa nói về “Nhân pháp câu không” như Pháp Tướng tông và Tam Luận tông.
3. Đại thừa chung giáo (như Niết Bàn tông, luận Khởi Tín và Thiên Thai tông)
4. Đại thừa đốn giáo (giáo lý đốn ngộ thành Phật, như Thiền tông).
5. Đại thừa viên giáo (bàn về lý nhất tâm chân như, viên dung vô ngại, thuộc Kinh Hoa Nghiêm, tức Hoa Nghiêm tông).
Mười tông
1. Ngã pháp câu hữu tông (Độc tử bộ)
2. Pháp hữu ngã vô tông (Hữu bộ)
3. Pháp vô khứ lai tông (Đại chúng bộ)
4. Hiện thông giả thực tông (Giả thuyết bộ cho ngũ uẩn là thực, 18 giới là giả).
5. Tục vọng chân thực tông (Thuyết xuất thế bộ, cho thế tục pháp là hư vọng, xuất thế gian pháp là chân thực)
6. Chư pháp đản danh tông (Nhất thuyết bộ, cho chư pháp chỉ là giả danh, không có thực thể)
7. Nhất thiết giai không tông (thuộc Đại thừa thủy giáo như Tam Luận tông)
8. Chân đức bất không tông (thuộc Đại thừa chúng giáo)
9. Tương ưng câu tuyệt tông (thuộc Đại thừa đốn giáo)
10. Viên minh cụ đức tông (thuộc Đại thừa viên giáo tức Hoa Nghiêm viên giáo)
Vậy trong năm giáo và mười tông kể trên, năm giáo thì phân loại về giáo nghĩa nông sâu trong một đời thuyết pháp của Phật, mười tông thì phân loại về tông nghĩa cao thấp của các tông.
Thánh điển căn bản của tông này là Kinh Hoa Nghiêm. Kinh này có ba bản dịch khác nhau là Kinh Hoa Nghiêm (60 quyển) do Ngài Giác Hiển đời Đông Tấn dịch, gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm (80 quyển) do Ngài Thực Xoa Nan Đà đời Đường dịch gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm (40 quyển) do Ngài Bát Nhã đời Đường dịch, gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm. Thám Huyền Ký của Ngài Hiển Thủ (Pháp Tạng) thì giải thích về nghĩa lý bộ Lục Thập Hoa Nghiêm, Đại Sớ Sao của Ngài Thanh Lương (Trừng Quán) thì chú thích bộ Bát Thập Hoa Nghiêm và Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao của Ngài Khuê Phong (Tông Mật), giải thích bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm. Về giáo nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm đại lược như trên đã kể. Tông này lấy Ngài Mã Minh và Long Thọ là Sơ Tổ ở Ấn Độ và Ngài Đỗ Thuận là Sơ Tổ ở Trung Quốc theo như biểu đồ trên.
Đỗ Thuận (557 - 640): Ngài người Ung Châu (tỉnh Thiểm Tây) tên là Pháp Thuận, họ Đỗ, nên gọi là Đỗ Thuận. Lúc đầu Ngài chuyên tu về Thiền định ở chùa Nhân Thánh, sau lại tới ở chùa Chí Tướng núi Chung Nam. Chuyên đọc tụng và giảng diễn Kinh Hoa Nghiêm, và tu hạnh Phổ Hiền, được vua Đường Thái Tông rất mến phục. Năm Trinh Quán thứ 14 (640) thì Ngài tịch. Ngài trước tác những bộ Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán Môn (1 quyển), Thập Môn Thực Tướng Quán (1 quyển) và Hội Chư Tôn Biệt Kiêm Tụng (1 quyển). Đệ tử của Ngài tuy nhiều, nhưng tựu trung có Trí Nghiễm là giỏi hơn cả.
Trí Nghiễm (602 - 668): Ngài người Tân Châu (tỉnh Cam Túc), 12 tuổi xuất gia, theo Ngài Đỗ Thuận học tập Kinh Hoa Nghiêm và thường thường giảng Kinh Hoa Nghiêm ở chùa Vân Hoa, tới năm đầu niên hiệu Tổng Chương (668) thì tịch, thọ 67 tuổi. Sau được đời tôn là “Văn Hoa Tôn giả” và “Chí Tướng Đại sư”. Trước tác của Ngài gồm có Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Ký (10 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Khổng Mục Chương (4 quyển), Hoa Nghiêm Ngũ Thập Yếu Vấn Đáp (2 quyển), Hoa Nghiêm Nhất Thừa Thập Huyền Môn (1 quyển) v.v. Đệ tử của Ngài là Pháp Tạng, Nghĩa Tương.
Nghĩa Tương (625 - 702): Ngài người nước Tân La (Cao Ly), 29 tuổi xuất gia, rồi “nhập Đường cầu pháp”, theo Ngài Trí Nghiễm ở núi Chung Nam học về giáo nghĩa Kinh Hoa Nghiêm, thấu triệt được diệu nghĩa của kinh đó. Sau khi về nước, Ngài sáng lập ra tông Đông Hải Hoa Nghiêm tại Cao Ly. Năm đầu vua Thánh Đức Vương (702) thì mất, được vua Túc Tông Cao Ly tặng tên hiệu là “Viên Giáo Quốc Sư”. Trước tác của Ngài hiện còn là Hoa Nghĩa Nhất Thừa Pháp Giới Đồ (1 quyển), Bạch Hoa Đạo Tràng Phát Nguyện Văn (1 quyển). Môn đệ của Ngài có mười Đại đức là Ngộ Chân, Trí Thông, Biểu Huấn, Chân Định, Chân Tạng, Đạo Dung, Lương Viên, Tướng Nguyên, Năng Nhân, Nghĩa Tịch.
Pháp Tạng (643 - 712). Ngài người Tràng An, người tổ chức hoàn thành về giáo nghĩa của Hoa Nghiêm tông. Nhân Ngài được nghe biết Ngài Trí Nghiễm ở chùa Vân Hoa, liền xin nhập môn học đạo, và thấu triệt được huyền nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm, được Tắc Thiên Võ Hậu trọng đãi, vua sắc dựng chùa Thái Nguyên để Ngài chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm. Võ Hậu được nghe Ngài giảng kinh, rất mến phục tài đức, nên tặng Ngài tên hiệu là “Hiền Thủ Đại sư”. Ngài còn tham gia vào công việc phiên dịch Kinh Hoa Nghiêm cùng Ngài Thực Xoa Nan Đà. Sau khi dịch xong Kinh Hoa Nghiêm, Ngài dâng chiếu giảng kinh ở chùa Phật Thọ Ký tại Lạc Dương, và ở điện Trường Sinh trong cung vua. Ngài giảng Kinh Hoa Nghiêm tất cả hơn 30 lần. Năm đầu niên hiệu Tiên Thiên (712) đời Trung Tông thì tịch, thọ 70 tuổi.
Để tuyên dương tư tưởng Nhất thừa viên giáo của Hoa Nghiêm và để nêu cao địa vị tối cao của Kinh Hoa Nghiêm, nên Ngài đã phán thích giáo tướng của Phật giáo chia làm năm giáo và mười tông như trên đã thuật. Trước tác của Ngài có rất nhiều, trong đó có những bộ trọng yếu như Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký (20 quyển), Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương (4 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Chỉ Quy, Hoa Nghiêm Kinh Vấn Nghĩa Chương Mục, Du Tâm Pháp Giới Ký, Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bản Sớ (6 quyển), Đại Thừa Khởi Tín Luận Nghĩa Ký (5 quyển) và nhiều bộ khác. Môn đệ của Ngài là Tuệ Uyển, Hoằng Quán, Trí Quang, Tôn Nhất, Văn Siêu, Tuệ Anh, Thẩm Tường. Tuệ Uyển là đệ tử thượng túc, nhưng vì soạn bộ Hoa Nghiêm Phán Định Ký (15 quyển), giáo nghĩa trong bộ này đi ngược lại với học thuyết của thầy, nên không được xếp vào hàng kế truyền chính thống của Hoa Nghiêm tông, nên tông này bị ngừng phát triển từ đó.
Trừng Quán (737 - 838): Ngài người Việt Châu (tỉnh Chiết Giang), sinh năm Khai Nguyên thứ 15 (737), 11 tuổi tới chùa Bảo Lâm, đầu Phật xuất gia, học Kinh Hoa Nghiêm. Sau Ngài tới học luật với Lê Luật sư chùa Thê Hà, tới Ngài Trạm Nhiên học Thiên Thai tông, tới Ngài Tuệ Trung học thiền Ngưu Đầu. Ngoài ra, Ngài còn nghiên cứu về Tất đàm, Ngũ minh, bí chú. Năm Đại Lịch thứ 11 (776), Ngài lên núi Ngũ Đài chiêm bái các chùa, cảm ứng thấy chân dung Bồ tát Phổ Hiền từ núi Nga My tới. Ngài trụ trì ở chùa Đại Hoa Nghiêm tại núi đó, chuyên giảng diễn kinh Hoa Nghiêm. Sau vâng sắc cùng Ngài Bát Nhã dịch bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm. Ngài là người tận lực hoằng truyền tư tưởng Kinh Hoa Nghiêm, làm cho Hoa Nghiêm tông trở nên hưng thịnh hơn trước. Năm Khai Thành thứ 3 (838) thì tịch, thọ 102 tuổi, táng tại núi Chung Nam. Hậu thế tôn Ngài là tổ thứ tư của Hoa Nghiêm tông, và được tặng tên hiệu là “Thanh Lương Đại sư”. Tư tưởng giáo học của Ngài không chỉ thuần túy Hoa Nghiêm, mà bao hàm cả tư tưởng Giáo thiền nhất trí. Trước tác của Ngài gồm có Hoa Nghiêm Kinh Sớ (60 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (90 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Sớ Diễn Nghĩa Sao (30 quyển), Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Sớ (10 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu (3 quyển), Hoa Nghiêm Pháp Giới Huyền Kính (2 quyển) v.v. Đệ tử của Ngài có hơn 100 người, nhưng trong đó có Tôn Mật, Tăng Duệ, Bảo Ấn, Tịch Quang gọi là Tứ kiệt. Tôn Mật là tổ thứ năm của Hoa Nghiêm tông, tổ thứ tư là Ngài Trừng Quán, tổ thứ ba là Pháp Tạng, tổ thứ hai là Trí Nghiễm và tổ thứ nhất của tông này là Ngài Đỗ Thuận.
Tôn Mật (780 - 841): Ngài người Quảng Châu tỉnh Tứ Xuyên, sinh năm đầu niên hiệu Kiến Trung (780) đời vua Đức Tông, xuất thân từ một gia đình nhà Nho nên rất giỏi Nho học. Năm 28 tuổi, Ngài đầu Phật xuất gia ở chùa Đại Vân (Kinh Châu), theo Ngài Đạo Viên nghiên cứu về Thiền học. Sau được gặp Ngài Trừng Quán, bèn ngộ được giáo nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm. Vì vậy tư tưởng của Ngài là tư tưởng “Thiền giáo nhất chí”, tức là Hoa Nghiêm và Thiền dung hợp với nhau. Năm đầu niên hiệu Hội Xương (841) đời Võ Tông thì Ngài mất, thọ 62 tuổi. Ngài được vua Tuyên Đế tặng tên hiệu là “Định Tuệ Thiền sư”, đời thường gọi là “Khuê Phong Thiền sư”. Sở dĩ có tên đó là vì có một thời gian Ngài tu thiền ở Lan Nhã Khuê Phong. Trước tác của Ngài gồm có Viên Giác Kinh Khoa Văn (2 quyển), Viên Giác Kinh Đại Sở Thích Nghĩa Sao (13 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Luân Quán (15 quyển), Hoa Nghiêm Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao (6 quyển), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập (2 quyển), Nguyên Nhân Luận (1 quyển) và nhiều bộ khác. Đệ tử của Ngài là Thái Cung, Thái Tích, Nhân Du. Tuy vậy, nhưng tông này, từ cuối đời Đường trở về sau cũng bước vào giai đoạn suy kém.