Kinh điển của Mật giáo, đã có một vài bộ như Đại Quán Đỉnh Kinh, Khổng Tước Vương Kinh do Ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La dịch ở đời Đông Tấn, và trong các kinh điển khác, thường thấy có các bài thần chú được lưu hành. Nhưng đó không phải là thuần túy Mật giáo, mà thuần túy Mật giáo được thành lập từ đời Đường, do ba đại học giả của Mật giáo là Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không, đem Mật giáo từ Ấn Độ truyền tới Trung Quốc, mà thành lập một tông riêng gọi là Mật tông.
Mật Tông
Tên tông: Tông này dựa vào giáo lý bí mật của Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương Đỉnh, nên gọi là Mật tông hay Chân Ngôn tông.
Giáo nghĩa: Giáo nghĩa trung tâm của tông này là “Tam đại” tức là “Thể đại”, “Tướng đại” và “Dụng đại”. Trong Thể đại lại chia làm sáu là “Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không và Thức”. Sáu đại này là bản thể của hết thảy mọi pháp. “Địa, thủy, hỏa, phong, không” thuộc về vật chất, còn “Thức đại” thuộc về cơ năng tinh thần. Tướng đại có bốn thứ Mạn đà la (Mandala) là những tướng mạo sai biệt, biến hiện trên bản thể của “Sáu đại”. Tức là Đại Mạn đà la (hình ảnh chư Phật, Bồ tát hoặc Đạo tràng), Pháp Mạn đà la (văn tự của các kinh điển), Yết ma Mạn đà la (uy nghi và sự biến hiện của chư Phật, Bồ tát), Tam muội Mạn đà la (Thệ nguyện, tập hội, hoặc ấn quyết v.v.). Dụng đại là “Tam mật”, tức là “Thân mật”, “Khẩu mật” và “Ý mật”. Vậy Sáu đại của Thể đại, bốn Mạn đà la của Tướng đại, và Tam mật của Dụng đại. Sáu đại thì thuyết minh nguyên lý bản thể của chư pháp. Bốn Mạn đà la biểu hiện về nghĩa hiện tượng sai biệt của sáu đại. Tam mật nêu về ý nghĩa thực tiễn tu hành, khi tu tới tầng bậc Tam mật tương ưng với nhau, tức là “Tức thân thành Phật”, nghĩa là tay thì kết ấn (Thân mật), miệng đọc chú (Khẩu mật), ý trụ ở tam ma địa (Ý mật), gọi là Tam mật tương ưng.
Mật tông tự cho giáo lý của mình là Bí mật giáo, còn các tông khác là Hiển giáo. Vì Hiển giáo cho Pháp thân của Phật là lý thể, không sắc không hình và không thuyết pháp, nhưng Mật giáo lại chủ trương, vị giáo chủ của Mật tông là Đại Nhật Như Lai. Đại Nhật Pháp thân, có sắc có hình và có thuyết pháp. Những kinh điển do Phật Đại Nhật nói ra là Đại Nhật Kinh và Kim Cương Đỉnh Kinh. Hiển giáo tu hành phải trải qua ba kiếp mới được thành Phật, nhưng Mật giáo chỉ trong một niệm mà được thành Phật, tức là “Tức thân thành Phật”, “Hiển giáo phải nương vào Tam tạng Thánh giáo để giác ngộ, Mật giáo chỉ dựa vào nghi quỹ, tức là phép tụng trì mật chú và ấn quyết để tiêu diệt tội chướng”. Vì những lý do đó nên gọi là Mật giáo.
Truyền thừa:
Mật giáo được thành lập ở Trung Quốc là do công của các Ngài Thiện Vô Úy, Nhất Hạnh, Kim Cương Trí và Bất Không Tam Tạng.
Thiện Vô Úy (Súbhakara 637 - 735): Ngài người Trung Ấn Độ, đại học giả của Mật giáo, ở chùa Na Lan Đà (Nalanda) Trung Ấn, tới Trung Quốc vào năm Khai Nguyên thứ 4 (716), đời vua Huyền Tông. Vì đã được trao truyền mật ấn từ Ngài Long Trí (Nàgabodhi) ở Ấn Độ, nên Ngài trở thành một học giả trứ danh của Mật giáo đương thời, được vua Huyền Tông rất trọng đãi, vua thỉnh Ngài tới cung đình để tu phép chân ngôn bí mật, và lại mời Ngài ở chùa Tây Minh để phiên dịch kinh điển về Mật giáo. Năm Khai Nguyên thứ 23 (735) thì Ngài tịch. Trong 20 năm, Ngài đã dịch được những bộ Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Biến Gia Trì Kinh (7 quyển) gọi tắt là Đại Nhật Kinh, bộ kinh này là Thánh điển căn bản của Mật giáo, Tô Tất Địa Yết La Kinh (3 quyển) và các kinh điển khác gồm 21 bộ. Đệ tử của Ngài là Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Tư, Nghĩa Lâm v.v.
Nhất Hạnh (638 - 727): Ngài người Thuận Đức (tỉnh Trực Lệ), 21 tuổi xuất gia và y chỉ vào Cảnh Thiền sư ở Kinh Châu, học về Tam luận, Thiền học, Thiên Thai, lại tinh thông cả Thiên văn học. Khi Ngài Thiện Vô Úy tới triều, Ngài được truyền về “Thai Tạng giới” của Mật giáo, và cùng Ngài Thiện Vô Úy dịch bộ Đại Nhật Kinh, sau khi dịch xong, Ngài lại chú sớ thành bộ Đại Nhật Kinh Sớ (20 quyển) để hoằng truyền. Năm Khai Nguyên thứ 9 (721), Ngài vâng sắc Huyền Tông, vào chốn cung đình soạn bộ Đại Diễn Lịch và năm thứ 11 (723) soạn bộ Hoàng Đạo Nghi để sửa đổi lại lịch pháp của Trung Quốc. Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) thì Ngài tịch ở chùa Hoa Nghiêm tại Tràng An, thọ 45 tuổi. Vua Huyền Tông rất mến tiếc, bãi triều ba ngày để tang, và tặng Ngài tên hiệu là “Đại Tuệ Thiền sư”.
Kim Cương Trí (Vajabodhi, 671 - 741): Ngài người Nam Ấn, cũng là một danh tăng tại chùa Na Lan Đà. Ngài tới Lạc Dương vào năm Khai Nguyên thứ 8 (720), sau Ngài Thiện Vô Úy 4 năm. Sau khi tới Trung Quốc, Ngài chuyên việc phiên dịch kinh điển tại chùa Tư Thánh và Kiến Phúc ở Tràng An, năm Khai Nguyên thứ 29 (741) thì tịch, thọ 71 tuổi. Những kinh điển Ngài đã phiên dịch gồm có 25 bộ, 32 quyển, trong đó có Du Già Du Kỳ Kinh và Lược Xuất Tụng Niệm Kinh. Đệ tử của Ngài là Bất Không, Nhất Hạnh, Tuệ Siêu và Nghĩa Phúc.
Bất Không (Anoghavajra, 705 - 774): Bất Không gọi đủ là Bất Không Kim Cương. Ngài người nước Sư Tử (Tích Lan – Sri Lanka), 15 tuổi theo Ngài Kim Cương Trí cùng tới Lạc Dương và được thọ giới ở đó. Trong 20 năm thờ thầy học đạo, Ngài chuyên nghiên cứu về bí nghĩa của Mật giáo. Sau khi Ngài Kim Cương Trí tịch, Ngài cùng với Hàm Quang lại theo đường thủy tới Ấn Độ, để tham vấn các bậc học giả của Mật giáo đương thời, sưu tầm được rất nhiều kinh điển của Mật giáo. Tới năm Thiên Bảo thứ 5 (746) lại trở về Tràng An, chuyên việc phiên dịch để hoằng truyền Mật giáo. Ngài tịch năm Đại Lịch thứ 9 (774), đời vua Đại Tông, thọ 70 tuổi. Trong khoảng 30 năm, Ngài được ba đời vua Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông đều trọng đãi. Khi Ngài mất, vua bãi triều ba ngày để kỷ niệm, và tặng Ngài tên hiệu là “Đại Biên Chính Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Đại Hòa Thượng”.
Những kinh điển Ngài đã phiên dịch được gồm có 77 bộ, 101 quyển, trong đó có những bộ Kim Cương Đỉnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thực Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương Kinh, phổ thông gọi là Kim Cương Đỉnh Kinh (3 quyển), Phát Bồ Đề Tâm Luận (1 quyển) là hai bộ Thánh điển căn bản của Mật giáo. Trên phương diện phiên dịch kinh điển, Ngài cũng như Ngài La Thập, Chân Đế và Huyền Trang, trong lịch sử gọi là “Bốn nhà đại phiên dịch” của Phật giáo Trung Quốc.
Môn đệ của Ngài gồm có Hàm Quang, Tuệ Siêu, Huệ Quả, Huệ Lăng, Huyền Cảo và Siêu Giác, Tuệ Lâm. Hàm Quang cùng thầy tận lực hoằng truyền Mật giáo ở Ngũ Đài Sơn. Tuệ Lâm soạn bộ Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (100 quyển). Còn Huệ Quả thì đem Mật giáo truyền cho Ngài Không Hải của Nhật Bản trong khi Ngài “Nhập Đường cầu Pháp”. Ngài Không Hải vì được theo Ngài Huệ Quả học được Mật giáo mới của Ấn Độ, nên Ngài được trao truyền cả bí nghĩa của “Kim Cương giới” và “Thai Tạng giới”. Sau khi về nước, Ngài sáng lập ra “Chân Ngôn tông” ở Nhật Bản, đưa Mật giáo tới chỗ cực thịnh.
Mạn đà la (Mandala): Nguồn gốc về Mạn đà la của Mật giáo chia ra “Thai Tạng giới Mạn đà la” và “Kim Cương giới Mạn đà la”. Ngài Thiện Vô Úy, Nhất Hạnh truyền về “Thai Tạng giới” và Ngài Kim Cương Trí, Bất Không truyền về “Kim Cương giới Mạn đà la” (theo biểu truyền thừa như trên).
Mạn đà la có nghĩa là tụ tập, tức là nơi tụ tập của chư Phật, Bồ tát, Thánh Tăng. Mạn đà la là những hình đồ của chư Phật, Bồ tát để làm ngôi Bản Tôn trong đạo tràng tụng niệm của Mật giáo. Thai Tạng giới Mạn đà la là nơi phát sinh ra chư Phật, biểu hiện về “Nhân” hay “Lý”, nên lại có tên là “Nhân Mạn đà la” hay “Lý Mạn đà la”. Kim Cương giới Mạn đà la biểu hiện về “Quả” hay “Trí” nên có tên “Quả Mạn đà la” hay “Trí Mạn đà la”. Về hình tướng của Mạn đà la thì được biến hóa, sửa đổi rất nhiều, nên có rất nhiều chủng loại khác nhau, đều là những đối tượng tu trì, cầu đảo của Mật giáo.
Sau khi được truyền bá vào Trung Quốc, ảnh hưởng của văn hóa Mật giáo đã lan tràn vào rất nhiều các lĩnh vực như điêu khắc, kiến trúc và hội họa v.v., vì thế Mật giáo rất hưng thịnh, và được các triều vua ưu đãi.