Đại sư Trí Giả đời Tùy đã sáng lập ra Thiên Thai tông, rồi truyền cho đệ tử là Đại sư Chương An. Tông này phát triển rất rực rỡ ở đời Tùy, nhưng tới đời Đường, vì không có nhân tài xuất hiện nên suy kém, tuy cũng có các Ngài Trí Uy, Tuệ Uy, Huyền Lãng là người kế thừa, nhưng chỉ là duy trì mệnh mạch của tông hệ, không thể sánh kịp với các tông khác. Đến đời vua Huyền Tông, đệ tử của Huyền Lãng là Kinh Khê Trạm Nhiên (Diệu Lạc Đại sư) xuất hiện, nên ánh sáng huy hoàng của Thiên Thai tông lại được tái hiện.
Kinh Khê Trạm Nhiên (711 - 782): thường gọi là Đại sư Diệu Lạc, Ngài người Thượng Châu (tỉnh Giang Tô), xuất thân từ gia đình Nho học, năm Cảnh Vân thứ 2 (711) đời Duệ Tông, theo Ngài Huyền Lãng đầu Phật xuất gia. Hơn 20 năm chuyên về Thiên Thai học, nên Ngài phát huy được nhiều áo nghĩa của Thiên Thai tông. Thanh thế của Ngài cũng ngang với Đại sư Thanh Lương (Trừng Quán) của Hoa Nghiêm tông và Thiền tông ở thời Thịnh Đường. Về giáo nghĩa, Ngài chịu ảnh hưởng của Hoa Nghiêm tông, nên bao hàm tư tưởng dung hợp các tông. Năm Kiến Trung thứ 2 (782) đời Đức Tông, thì Ngài mất, thọ 72 tuổi. Trước tác của Ngài gồm có Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa Tiêm (10 quyển), Pháp Hoa Kinh Văn Cú Ký (10 quyển), Chỉ Quán Sưu Yếu Ký (10 quyển), Niết Bàn Kinh Sớ, Duy Ma Kinh Sớ. Môn đệ của Ngài gồm có 39 người, những người xuất sắc thì có các Ngài Đạo Thúy, Phả Môn, Nguyên Hạo, Hành Mãn v.v. Tựu trung Đạo Thúy và Hành Mãn lĩnh hội được áo nghĩa của Thiên Thai tông và đem truyền cho Ngài Tối Trừng (Nhật Bản). Tuy vậy, tông này cũng không được thịnh đạt bằng trước, vì gặp phải nạn Võ Tông phế Phật.
Võ Tông phế Phật (hay Hội Xương pháp nạn): Phật giáo Trung Quốc ở cuối đời Đường năm Hội Xương thứ 2 (842), bị vua Võ Tông phá hủy Phật giáo, nên gọi là “Hội Xương pháp nạn”, một trong “Tam Võ nhất Tông pháp nạn”. Nguyên nhân pháp nạn này trước hết phải nói đến mối quan hệ giữa Đạo giáo và Phật giáo.
Vào đời Đường, sở dĩ Đạo giáo chiếm được địa vị trọng yếu là vì khai tổ của Đạo giáo là Lý Nhĩ (Lão Tử) cùng họ với hoàng thất nhà Đường, nên lịch đại triều vua đều tin sùng Lão Tử là tổ tiên của Đường thất.
Đầu đời Đường có quan Thái Sử Lệnh và Đạo sĩ Phó Tụy dâng sớ tâu vua gồm 11 điều, trong đó xin vua hạ lệnh thải Tăng Ni và giảm bớt việc xây dựng chùa tháp, để tăng nền tài chính của quốc dân với mục đích là đả phá Phật giáo và duy trì Đạo giáo (năm Võ Đức thứ 4 (621). Đương thời nhờ tài hùng biện lỗi lạc của Sa môn Pháp Lâm nhiệt liệt hộ pháp, Ngài soạn quyển Phá Tà Luận để chỉ trích Đạo giáo là gian nịnh, hơn nữa, lại gặp lúc biến loạn trong cung đình, nên dập tắt được sự công kích đó. Sau đời vua Thái Tông, đối với các tôn giáo, triều đình áp dụng chính sách khoan dung, nên các tôn giáo được tự do phát triển, vì thế giáo đoàn của Phật giáo tiến triển quá nhanh và quá mạnh. Từ giữa đời Đường trở về sau, nội bộ của giáo đoàn Phật giáo phát sinh nhiều tệ đoan, chứa chấp tư hữu tài sản, một số đông Tăng Ni chỉ khu danh trục lợi, hơn nữa lại gặp lúc vua Võ Đế thâm tín Đạo giáo, nghe lời tâu của Đạo sĩ Triệu Quang Chân, nên thẳng tay phá hủy Phật giáo.
Năm Hội Xương thứ 2 (842) vua hạ lệnh cho tất cả Tăng Ni trong nước, nếu ai là người phạm vào giới luật của Phật giáo đã chế định, thì bắt phải hoàn tục, và tài sản tư hữu đều bị tịch thu. Tới năm Hội Xương thứ 4 (844) vua lại hạ lệnh nghiêm trọng hơn, nghĩa là bắt phá hủy hết thảy những chùa chiền nhỏ, và Tăng Ni ở những chùa đó đều phải hoàn tục. Năm Hội Xương thứ 5 (845) lại hạ lệnh trong hai kinh thành Tràng An và Lạc Dương, mỗi nơi chỉ để lại một ngôi chùa và 30 vị Tăng Ni; các châu, quận, mỗi nơi để lại một ngôi chùa và 20 Tăng Ni ở châu lớn, 10 ở châu vừa và 6 người ở châu nhỏ. Ngoài ra, hết thảy đều bị phá hủy, hay làm nơi tổ chức các hoạt động công cộng cho dân chúng, và Tăng Ni đều phải hoàn tục. Kết quả kỳ phá Phật này đã có 44.600 ngôi chùa lớn nhỏ bị phá hủy, và 260.500 Tăng Ni hoàn tục. Nhưng ngay sau năm phá Phật năm Hội Xương thứ 6 (846) thì Võ Tông mất, Tuyên Tông lên nối ngôi, vua lại lập tức hạ chiếu chỉ phục hưng Phật giáo. Tuy vậy, nhưng truyền thống của các tông phái đều bị tan rã, tản mát khắp nơi, kinh điển thuộc giáo nghĩa của các tông phái bị thất lạc, nên Phật giáo cũng theo với vận mệnh của triều nhà Đường, cũng đi vào vòng suy thoái.