Vì có rất nhiều tư tưởng giáo học của các tông phái xuất hiện ở thời kỳ nhà Đường nên có thể nói đây là thời kỳ toàn thịnh trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, và cũng gọi là “thời đại hoàng kim”. Về phương diện phiên dịch kinh điển cũng bước sang giai đoạn cải cách mới, nên được gọi là “thời đại Tân dịch”. Như trên đã lược thuật về sự nghiệp phiên dịch kinh điển của các Ngài Nghĩa Tịnh, Huyền Trang, Bất Không, Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí đều là những nhà đại phiên dịch. Ngoài ra còn có các Ngài Thực Xoa Nan Đà, Bồ Đề Lưu Chí, Địa Bà Ha La, Đề Vân Bát Nhã và Bát Nhã v.v.
Thực Xoa Nan Đà (Sikhànanda): Trung Hoa dịch là Học Hỷ. Ngài người nước Vu Điền. Trong sự nghiệp phiên dịch kinh điển của Ngài, dịch phẩm nổi tiếng là Kinh Hoa Nghiêm (80 quyển). Tắc Thiên Võ Hậu biết có nguyên văn Phạn bản của Kinh Hoa Nghiêm ở nước Vu Điền, liền sai sứ tới tìm Phạn bản và thỉnh Ngài Thực Xoa Nan Đà tới Trung Quốc vào năm đầu niên hiệu Chứng Thánh (695), để dịch Kinh Hoa Nghiêm tại chùa Đại Biến Không ở Lạc Dương, tới niên hiệu Thánh Lịch năm thứ 2 (669), trong khoảng 5 năm thì hoàn thành. Trong khi dịch, Võ Hậu đích thân đến dịch trường viết bài tựa, và có các Ngài Bồ Đề Lưu Chi, Nghĩa Tịnh, Pháp Tạng cũng tham gia. Bộ kinh Hoa Nghiêm này gồm có 80 quyển, gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm. Bộ Hoa Nghiêm 60 quyển do Ngài Giác Hiền dịch đời Đông Tấn, gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm hay Cựu Dịch Hoa Nghiêm Kinh. Ngoài ra, Ngài còn dịch những bộ khác như Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh (7 quyển), Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký Kinh (3 quyển) và các kinh khác gồm 19 bộ. Ngài tịch vào năm đầu niên hiệu Cảnh Vân (710), thọ 59 tuổi.
Bồ Đề Lưu Chí (Bodhiruci): Ngài người Nam Ấn, tới Trung Quốc vào năm Tràng Thọ thứ 2 (693), được Tắc Thiên Võ Hậu kính lễ, sắc ở chùa Phật Thọ Ký tại Lạc Dương và chùa Sùng Phúc ở Tràng An để Ngài chuyên về việc phiên dịch, tới năm Khai Nguyên thứ 15 (727) thì tịch tại chùa Tràng Thọ ở Tràng An, thọ trên 100 tuổi. Trong khoảng hơn 30 năm, Ngài đã dịch được nhiều bộ, trong đó có bộ Đại Bảo Tích Kinh (120 quyển) và Bảo Vũ Kinh, Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chân Ngôn v.v.
Địa Bà Ha La (Divakara): Ngài người Trung Ấn Độ, tới Trung Quốc vào năm đầu niên hiệu Nghĩa Phương thứ 4 (676) đời vua Cao Tông, mất năm Thùy Củng thứ 3 (687) tại chùa Đông Thái Nguyên, thọ 75 tuổi. Ngài dịch những bộ Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm, Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni Kinh và Đại Thừa Hiển Thức Kinh.
Đề Vân Bát Nhã (Devaprajnä): Ngài người nước Vu Điền, tới Trung Quốc vào năm đầu niên hiệu Vĩnh Xương (689) đời Tắc Thiên Võ Hậu, và không rõ năm tịch. Ngài dịch những bộ Hoa Nghiêm Kinh Tu Từ Phận (1 quyển), Tạo Tượng Công Đức Kinh (2 quyển), Đại Thừa Pháp Giới Vô Phân Biệt Luận (1 quyển).
Bát Nhã (Prajnä): Ngài người Bắc Ấn Độ, tới Trung Quốc vào năm Trinh Nguyên thứ 2 (786) đời vua Đức Tông tới năm Trinh Nguyên thứ 14 thì Ngài dịch xong bộ Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hành Nguyện Phẩm (40 quyển), gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm. Bộ này cũng như Lục Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm đều được lưu hành ở đời.
Chúng Kinh Mục Lục: Để chỉnh lý những kinh điển đã dịch theo trình tự, hệ thống, nên có bộ Chúng Kinh Mục Lục ra đời. Trước hết, Ngài Tĩnh Mại soạn bộ Dịch Kinh Đồ Ký (4 quyển), Ngài Đạo Tuyên soạn bộ Đại Đường Nội Điển Lục (10 quyển), Tục Tập Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành (1 quyển), Sa môn Minh Toàn soạn bộ Đại Chu San Định Chúng Kinh Mục Lục (15 quyển) ở thời Tắc Thiên Võ Hậu. Ngài Trí Thăng soạn bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục (20 quyển) năm Khai Nguyên thứ 18 (730) và bộ Khai Nguyên Thích Kinh Lục Lược Xuất (5 quyển), Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Ký (1 quyển). Ngài Viên Chiếu chùa Tây Minh soạn bộ Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (30 quyển), Tục Khai Nguyên Thích Giáo Lục (3 quyển). Các bộ kể trên đều là những tài liệu rất quý để nghiên cứu về lịch sử dịch kinh. Ngoài ra, còn có Tất Đàm Tự Ký của Ngài Trí Quang, Phạn Ngữ Thiên Tự Văn của Ngài Nghĩa Tịnh và Đường Phạn Văn Tự của Ngài Toàn Chân, Phạn Ngữ Tạp Danh của Ngài Lễ Ngôn, Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (25 quyển) của Ngài Huyền Ứng v.v.