Tư tưởng và tín ngưỡng: Về tư tưởng giáo học của Phật giáo như trên đã kể, đều là những tư tưởng triết học, cao xa, u huyền, chỉ thích ứng về mặt nghiên cứu, học hỏi và giới hạn ở một giai cấp nhất định mà thôi. Về tư tưởng phổ thông, trong mọi tầng lớp dân chúng, ta phải đề cập đến vấn đề tín ngưỡng. Vì nhu cầu nên vấn đề tín ngưỡng được phát triển mau lẹ, đó cũng là sự thích ứng với hoàn cảnh tâm lý xã hội. Như người đương thời tin “Nhân quả báo ứng”, nên sùng kính Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế Âm. Ngoài ra còn tín ngưỡng Văn Thù Bồ tát và Xá lợi của Phật.
Nhân quả báo ứng: Đương thời, quốc dân tin theo Phật giáo, không những mong được hạnh phúc, sống lâu, giàu bền, mà còn cầu cho đời này được an ổn, đời sau được vinh hoa phú quý. Họ rất tin tưởng vào nhân quả báo ứng, luân hồi chuyển sinh, nên họ cho rằng công đức tạc tượng, làm chùa, đọc kinh, khắc kinh, viết kinh, có thể khiến cho đời này được hạnh phúc, đời sau được sung sướng.
Tín ngưỡng Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế Âm: Dân chúng tin tưởng rằng, ở cõi nước Cực lạc có Đức Phật A Di Đà, hiện là giáo chủ ở đó. Nếu ai muốn sinh sang cõi nước của Ngài chỉ cần niệm danh hiệu Ngài mà được vãng sinh, và cõi nước đó thì cực kỳ trang nghiêm đẹp đẽ, không có chút phiền não chướng ngại, vì thế mà tín ngưỡng Phật A Di Đà rất thịnh hành. Trong khi họ tín ngưỡng Phật A Di Đà, đồng thời họ cũng tín ngưỡng cả Phật Di Lặc để mong cầu sinh lên cõi trời Đâu Suất, và tin tưởng đọc tụng Kinh Pháp Hoa để mong cầu được dự vào cảnh giới Linh Sơn, được thấy Phật Thích Ca thuyết pháp như lúc còn hiện thế. Đức Quan Thế Âm, vì Ngài thường biến hiện ra 32 tướng để cứu độ chúng sinh, nên dân chúng rất tin tưởng và cầu niệm Ngài để mong được cứu khổ, cứu nạn, trong khi họ mắc phải tai ương bệnh hoạn.
Tín ngưỡng đức Văn Thù: có nguồn gốc từ núi Ngũ Đài, nên có tên là “Ngũ Đài Sơn Tín Ngưỡng”. Trong Kinh Hoa Nghiêm có chép: Bồ tát Văn Thù trụ ở núi Thanh Lương phía Đông Bắc và hiện đang thuyết pháp cho chư Bồ tát nghe, mà núi Thanh Lương sau này được ám chỉ là núi Ngũ Đài, nên cũng gọi núi Ngũ Đài là núi Thanh Lương. Hiện có đức Văn Thù thường thuyết pháp cho hàng vạn Bồ tát ở núi đó. Núi Ngũ Đài từ đời Tùy đến đời Đường trở về sau, được coi như là cõi Tịnh độ của đức Văn Thù, có rất nhiều tự viện được thiết lập. Nên Phật giáo ở Ngũ Đài Sơn trở thành một trung tâm tín ngưỡng lớn của đời Đường. Sở dĩ tín ngưỡng Văn Thù được thịnh hành là vì Hoa Nghiêm tông được lan truyền rộng rãi, và hệ thống Mật giáo của Ngài Bất Không Tam Tạng cũng tận lực truyền bá tư tưởng Mật giáo ở núi đó, rồi dựng ra chùa Kim Các, về sau Ngài Trừng Quán xây dựng chùa Hoa Nghiêm.
Ngũ Đài Sơn gồm có năm ngọn núi cao quây quần với nhau là Đông Đài, Tây Đài, Nam Đài, Bắc Đài và Trung Ương Đài, phong cảnh rất đẹp, nên đời gọi là Ngũ Đài Sơn. Lịch đại các triều vua, thường lập nhiều chùa viện ở núi này. Quanh núi có tất cả hàng mấy trăm ngôi chùa. Nhưng trong chùa Kim Các đó có năm ngôi là trang nghiêm vĩ đại nhất đó là các chùa Thanh Lương, Hoa Nghiêm, Ngọc Hoa và Pháp Hoa. Các ngôi chùa này là Đạo tràng hành đạo của cả nước trong những ngày lễ cầu quốc thái dân an, và trong những dịp giảng đọc Kinh Nhân Vương và Kinh Pháp Hoa. Năm Đại Lịch thứ 7 (772) khắp các chùa trong nước đều thiết lập thêm một viện thờ đức Văn Thù. Vì thế mà tín ngưỡng Văn Thù ở Ngũ Đài Sơn được phổ cập khắp nơi, khách thập phương xa gần chen nhau tới chiêm bái không ngớt, Ngũ Đài Sơn bỗng trở thành một đạo tràng linh nghiệm của nhân dân cả nước.
Tín ngưỡng Xá lợi của Phật: Tín ngưỡng Xá lợi của Phật, bắt nguồn từ Ấn Độ, cực thịnh vào thời vua A Dục. Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, thì tín ngưỡng Xá lợi của Phật đã phát triển mạnh từ đời nhà Tùy, tới đời Đường, tín ngưỡng đó rất thịnh hành. Đời Đường có rất nhiều tháp Xá lợi Phật, nhưng nơi tập trung tín ngưỡng của dân chúng đương thời là tháp Xá lợi A Dục Vương ở Kỳ Châu (tỉnh Thiểm Tây), tháp Xá lợi chùa Phúc Cảnh, tỉnh Tứ Xuyên, tháp Xá lợi chùa Siêu Hóa tỉnh Hà Nam. Trong ba nơi này lại tin tưởng tập trung vào tháp A Dục Vương ở Kỳ Châu hơn cả, và thường được gọi là tháp xá lợi chùa Pháp Môn.
Xá lợi ở tháp này thường lệ cứ 30 năm một lần được rước vào trong cung vua để làm lễ cúng dường. Tương truyền nếu năm nào mở hòm Xá lợi làm lễ cúng dường thì năm đó không có chiến tranh, bệnh tật, đói kém, dân chúng được an cư lạc nghiệp. Thời vua Đức Tông, Hiến Tông đời Đường cũng rước Xá lợi Phật về cung để cử hành đại lễ cúng dường. Đương thời có danh nho Hàn Dũ, thấy việc tín ngưỡng Xã lợi Phật quá thịnh, liền làm bài Luận Phật Cốt Biểu dâng vua, trong đó có ý bài bác cho rằng “Xương Phật chỉ là nắm xương khô, cặn thừa của hình hài, có gì linh nghiệm mà phải sùng bái”. Năm Nguyên Hòa thứ 14 (819), đương thời vua Hiến Tông trị vì, vua không hài lòng với lời bài bác trên, liền hạ chiếu đem đày Hàn Dũ tới Trào Châu tỉnh Quảng Đông.
Chính sách nhà vua đối với Phật giáo: Vua Cao Tổ nhà Đường, năm niên hiệu Võ Đức (618), tổ chức Vô giá đại hội tại điện Thái Cực bảy ngày đêm và xây dựng bảy ngôi chùa lớn tại các chiến trường để an ủi những vong linh tử trận. Vua Cao Tông, năm đầu niên hiệu Càn Phong (666), sắc mỗi châu trong thiên hạ dựng một ngôi chùa lớn, mỗi chùa độ bảy vị tăng, Tắc Thiên Võ Hậu, năm đầu niên hiệu Thanh Thụ (690), sắc dựng chùa ở mỗi châu trong thiên hạ và ở hai kinh thành Lạc Dương và Tràng An, đều lấy tên là Đại Vân Kinh Tự. Vua Trung Tông cũng sắc dựng ở mỗi châu một chùa lấy tên là Trung Hưng. Võ Hậu Tắc Thiên còn đặt ra đạo tràng trong cung đình, thỉnh Ngài Bất Không tới tu phép Mật giáo, để cầu đảo quốc thái dân an, và là nơi để chư Tăng cầu đảo trong những dịp lễ tết và ngày giỗ của nhà vua.
Giáo đoàn Phật giáo đời Đường, lúc đầu còn phụ thuộc vào Hồng Lô Tự cơ quan trung ương của chính phủ, nhưng tới thời Võ Hậu Tắc Thiên, lại thuộc vào Từ bộ trong Thượng thư Lễ bộ của trung ương. Thời vua Huyền Tông bắt đầu có lệ cấp phát độ điệp từ Lễ bộ cho các Tăng Ni trong toàn quốc. Như vậy, Phật giáo đời Đường hoàn toàn lệ thuộc vào quyền chi phối của quốc gia và trở thành một tôn giáo chấn hộ quốc gia, chiếm địa vị trọng yếu, Phật giáo nghiễm nhiên được coi là quốc giáo. Nhưng tới cuối đời Đường, vua Võ Tông hạ lệnh phá Phật, vì nhà vua quá tin tưởng vào Đạo giáo, và nghe lời gièm pha của Đạo sĩ Triệu Quy Chân, mặt khác, do cái tệ đoan của giáo đoàn Phật giáo gây ra. Đó cũng là sự thức tỉnh cho những Phật tử chân chính biết nhận rõ sứ mạng cao cả hoằng pháp của mình, để đưa Phật giáo về địa vị sẵn có của nó.
Tổ chức Giáo đoàn: Giáo đoàn của Phật giáo được phát triển từ thời đại Nam Bắc triều, qua đời Tùy, tới đời Đường thì tổ chức hoàn bị và toàn thịnh. Để thống chế giáo đoàn, trước hết có chức Tăng quan, nhưng chức Tăng quan đời Đường khác với đời Tùy. Tăng quan đời Đường đứng đầu có chức Tăng Lục để thống nhiếp Tăng Ni trong giáo đoàn. Sau chức Tăng Lục, có đặt ra chức Tăng Chính ở các châu, quận để quản hạt giáo đoàn từng địa phương. Còn ở các chùa lớn lại đặt ra chức “Tam cương” là Thượng Tọa, Tự Chủ và Điển Tọa để trông nom mọi công việc trong chùa. Đặc biệt Phật giáo ở Ngũ Đài Sơn có đặt một chức riêng gọi là “Ngũ Đài Sơn Thập Tự Đô Kiểm Hiệu Thú” để thống lĩnh quản hạt Phật giáo ở núi đó.
Sự nghiệp văn hóa, xã hội: Trước hết, về lễ nghi của Phật giáo trong một năm, có các kỳ Pháp hội, như hội Phật Niết bàn ngày 15 tháng 2, hội Tắm Phật ngày mồng 8 tháng 4, hội Vu Lan Bồn ngày 15 tháng 7, hội Phật Thành đạo ngày 8 tháng 12, và các ngày kỵ Tổ sư của các tông phái, cùng các ngày pháp hội của quốc gia, và các hội giảng kinh, cúng dường Xá lợi Phật v.v.
Văn học của Phật giáo đương thời có các truyện cảm ứng viết theo lối văn học thuyết thoại tiếp tục ra đời. Như cuốn Tục Cao Tăng Truyện và Tam Bảo Cảm Thông Lục của Ngài Đạo Tuyên, Pháp Uyển Châu Lâm của Đạo Thế, Minh Báo Ký của Dương Lâm, Minh Báo Thập Di của Nguyên Hựu, Thích Môn Tự Kính Lục của Hoài Tín, Kim Cương Bát Nhã Luận Nghiệm Ký của Mạnh Hiến Trung, Tịnh Độ Thụy Ứng Truyện của Thiếu Khang v.v., đều là những tác phẩm văn học bao hàm tư tưởng nhân quả báo ứng và thiên đường, địa ngục để khuyến thiện, trừng ác. Các ngành hội họa, kiến trúc, và điêu khắc của Phật giáo cũng rất tiến triển phát đạt. Nhất là những bức họa về biến tướng của Tịnh độ và Hoa Nghiêm, cũng như Mạn đà la của Mật giáo, đều là những tác phẩm tuyệt tác đương thời.
Trên phương diện cứu tế xã hội, thì Phật giáo đời Đường có đặt ra Bi Điền viện và Dưỡng Bệnh viện ở các chùa lớn trong thiên hạ để giúp đỡ người nghèo, người bệnh tật, mọi phí tổn được sự tài trợ của quốc khố, còn người đứng trông nom cai quản là các Tăng Ni. Ngoài ra, Phật giáo còn tham dự nhiều việc cứu tế xã hội khác như trị thủy, khai ngòi, bắc cầu cống cho dân chúng, nhưng cũng là nơi ngâm thơ, thưởng nguyệt của các thi sĩ, và còn là nơi trú chân cho những khách qua đường.