Phật giáo đời nhà Tống sở dĩ được phục hưng, trước hết phải kể đến sự ngoại hộ của vương thất nhà Tống. Sau khi tức vị, Vua Thái Tổ liền bắt tay ngay vào việc phục hưng Phật giáo đã bị hoang tàn ở phương Bắc sau kỳ phế Phật của Thế Tông nhà Hậu Chu. Ngay năm lên ngôi, năm đầu niên hiệu Kiến Long (960), vua hạ sắc lệnh phục hưng Phật giáo, độ cho 800 đồng tử xuất gia, và mời các danh tăng về cung đình để hỏi đạo, ban cho áo màu tía (tử y) và lại phái 157 người tới Tây Vực cầu pháp, hạ sắc lệnh khắc Đại Tạng Kinh. Vua Thái Tông, sau khi thống nhất Nam Bắc, cũng tận lực phục hưng Phật giáo, độ 17 vạn người xuất gia, nhiệt tâm hộ trì công việc phiên dịch kinh điển, tự vua lại soạn ra bài tựa Tân Dịch Tam Tạng Thánh Giáo ban cho Ngài Thiên Tức Tai (Pháp Hiền) và dựng ra Viện dịch kinh làm nơi phiên dịch. Vua còn phát tâm thọ giới Bồ tát với Ngài Nghĩa Tịnh, nhất tâm quy y Phật giáo, dựng đạo tràng ở nội điện làm nơi cho các danh Tăng cầu quốc thái dân an. Đời vua thứ 3 là Chân Tông cũng thâm tín Phật giáo, đồng thời viết bài tựa Tam Tạng Thánh Giáo ban cho Ngài Pháp Hiền vào năm Đại Tường Phù thứ 3 (1010), sắc dựng “Cam Lộ giới đàn” ở kinh đô và các châu, quận, tất cả 72 nơi. Năm Thiên Hỷ thứ 5 (1021) tổng số Tăng Ni lên tới 450.000 người. Từ đời Bắc Tống, tới đời Nam Tống, các triều vua cũng bảo hộ Phật giáo, nên Phật giáo lại hưng thịnh.