Thiền tông: Các tông được ra đời và thịnh hành ở đời Tùy, đời Đường, nhưng tới cuối đời Đường thì hầu như đều bị suy vi, chỉ có Thiền tông là vẫn phát triển. Vào đời Tống, Thiên Thai tông tuy cũng được phục hưng, nhưng không thể sánh kịp với Thiền tông. Thiền tông có chia ra các tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Đến đời Tống, Quy Ngưỡng tông đã tuyệt tích, Pháp Nhãn tông được sáng lập từ đời Ngũ Đại cũng ngừng phát triển, Tào Động tông cũng không được thịnh hành, mà chỉ có hai hệ thống Vân Môn và Lâm Tế thi nhau phát triển.
Khai tổ của Vân Môn tông là Ngài Văn Yển, rồi lần lượt truyền tới Trừng Viễn, Quang Tộ. Sau Quang Tộ có Ngài Tuyết Đậu Trùng Hiển (980 - 1052) ra đời. Ngài ở núi Tuyết Đậu thuộc Minh Châu (tỉnh Chiết Giang) để truyền bá về thiền phong của Vân Môn tông, làm cho Thiền tông rất hưng thịnh. Ngài trước thuật Tụng Cổ Bách Tắc. Sau Ngài Viên Ngộ của Lâm Tế tông cũng dựa vào tập đó mà bình giải thêm, soạn thành bộ Bích Nham Lục, là bộ sách trọng yếu của thiền. Trừng Viễn cùng với bạn đồng học là Duyên Mật, sau Duyên Mật là Chân Ứng, Hiểu Thông, Khế Tung lần lượt ra đời, nhưng đặc biệt có Ngài Minh Giáo tức Khế Tung Đại sư ở chùa Linh Ấn thuộc Hàng Châu, trước tác bộ Nguyên Giáo Luận và Phụ Giáo Biên, để nêu rõ tư tưởng hài hòa của Nho, Đạo, Phật, và bộ Thiền Môn Định Tổ Đồ định rõ cái hệ thống pháp mạch của Thiền tông. Tuy vậy nhưng tông này cũng chỉ hưng thịnh được ở đời Bắc Tống, tới đời Nam Tống chỉ còn thiền Lâm Tế thịnh hành.
Khai tổ của Lâm Tế tông là Ngài Nghĩa Huyền, rồi truyền đến Tồn Tưởng, Tuệ Ngưng, và Diên Chiểu, tới đầu nhà Tống, có Tỉnh Niệm, Thiện Chiêu, Sở Viên lần lượt xuất hiện. Sở Viên (987 - 1040) thì hoạt động ở triều vua Chân Tông và Nhân Tông. Sau Sở Viên có Hoàng Long Tuệ Nam (1002 - 1069) và Dương Kỳ Phương Hội (922 - 1049) xuất hiện. Ngài Tuệ Nam sáng lập ra phái Hoàng Long, còn Phương Hội sáng lập ra phái Dương Kỳ. Hai phái này hợp với năm tông kể trên, gọi là “Ngũ gia thất tông” của Thiền tông. Hệ thống Phương Hội lại có Bạch Vân Thủ Đoan, sau Ngài Thủ Đoan lại có Pháp Diễn ở núi Ngũ Tổ, kế đó là các Ngài Phật Quả Thiền sư (Khắc Cần), Phật Giám Thiền sư (Tuệ Cần) và Phật Nhãn Thiền sư (Thanh Viễn) ra đời. Nên đời thường gọi ba Ngài là “Tam Phật”. Phật Quả Khắc Cần (1063 - 1135) hiệu là Viên Ngộ, một danh tăng độc nhất của phái Dương Kỳ. Ngài nương vào Tụng Cổ Bách Tắc của Tuyết Đậu mà bình chú thêm, soạn ra bộ Bích Nham Lục như trên đã kể. Môn đệ của Ngài là Đại Tuệ Tông Cảo ( ? - 1163) và Hồ Kỳ Thiệu Long là những nhân vật hoạt động ở thời Nam Tống. Phái này được phồn thịnh lâu dài nhất.
Mặt khác, phái Hoàng Long của Ngài Tuệ Nam cũng có rất nhiều nhân tài xuất hiện. Tuy vậy, nhưng phái Dương Kỳ vẫn có thế lực hơn. Lúc đầu Tào Động tông không được phấn chấn, sau nhờ có Ngài Đạo Giai ra đời, Tào Động tông trở lại hưng thịnh. Kế tiếp có Thiên Đồng Như Tịnh, Ngài đem thiền phong của Tào Động tông truyền cho Ngài Đạo Nguyên của Nhật Bản, trong khi Đạo Nguyên “nhập Tống cầu Pháp”.
Thiền tông vốn không câu nệ văn tự, chỉ chú trọng vào pháp thực tiễn tu hành, lấy tâm truyền tâm, nhưng tới đời Tống thì văn học của Thiền tông xuất hiện rất nhiều, và còn ảnh hưởng tới các ngành văn học khác, nên Thiền tông ở đời này gọi là “Văn tự thiền” được lưu hành.
Thiên Thai tông: Thiên Thai tông được phục hưng từ thời Ngũ Đại là nhờ sự ngoại hộ của vua Ngô Việt, lại có Ngài Nghĩa Tịch tận lực tuyên dương. Tiếp đến môn đệ của Ngài Nghĩa Tịch là Nghĩa Thông (927 - 988), môn đệ của Nghĩa Thông là Từ Vân Tuân Thức (693 - 1032), và Tứ Minh Trí Lễ (960 - 1028) xuất hiện. Ngoài ra, bạn đồng học của Ngài Nghĩa Tịch là Chí Nhân, đệ tử của Chí Nhân là Ngộ Ân, rồi đến Nguyên Thanh, Trí Viên (976 - 1022) kế thừa, đều là những nhân vật đại biểu phục hưng Thiên Thai tông ở đời Tống. Nhưng Thiên Thai tông đời Tống lại chia ra hai phái là Sơn Gia và Sơn Ngoại cùng tranh biện lẫn nhau về giáo nghĩa. Ngài Trí Lễ và Tuân Thức là nhân vật đại biểu cho phái Sơn Gia, Ngài Ngộ Ân và Trí Viên là đại biểu cho phái Sơn ngoại. Vì hai phái này tranh biện lẫn nhau, nên đôi bên đều phát huy được nhiều áo nghĩa của Thiên Thai học, làm cho Thiên Thai tông phát triển mạnh. Trong hai phái, thì phái Sơn gia là hệ thống chính truyền của Thiên Thai, nên phát triển mạnh mẽ hơn, còn phái Sơn ngoại về sau bị khinh thị, nên không được phát triển. Hệ thống Ngài Trí Lễ sau lại có Trí Bàn xuất hiện, soạn ra bộ Phật Tổ Thống Kỷ, là bộ sách rất có giá trị về sử học của Phật giáo.
Luật tông: Luật tông ở đời nhà Tống, chỉ có Nam Sơn Luật tông thuộc hệ thống Ngài Đạo Tuyên vẫn được thịnh hành. Khoảng đời vua Nhân Tông có Ngài Doãn Kham (1005 - 1061) ra đời, soạn ra bộ Hội Chính Ký, để chú thích bộ Hành Sự Sao của Ngài Đạo Tuyên, ngoài ra, Ngài còn chú sớ nhiều bộ khác. Sau pháp tông của Ngài Doãn Kham là Nguyên Chiếu (1048 - 1116), trước thuật bộ Hành Sự Sao Tư Trì Ký để đối với bộ Hội Chính Ký. Vì thế nên Luật tông lại chia hai tông là Hội Chính và Tư Trì. Hai tông này đều cực lực làm cho Luật tông được phục hưng. Sau kết quả chỉ có hệ thống của Ngài Nguyên Chiếu là còn lưu truyền ở đời, còn hệ thống của tông Hội Chính chỉ hưng thịnh nhất thời.
Tịnh độ tông: Đời Tống, Tịnh độ tông trở thành môn tu học chung cho tất cả các tông, không phải môn tu dành riêng cho những đối tượng chuyên môn về Tịnh độ giáo. Nghĩa là các tông Thiên Thai, Thiền và Luật cũng đều lấy Tịnh độ làm môn tu thiết yếu. Đặc biệt Tịnh độ giáo thuộc hệ thống Thiên Thai lại rất thịnh đạt ở thời này. Đại biểu hoạt động của hệ thống đó là các Ngài Tuân Thức, Trí Lễ và Trí Viên. Ngài Tuân Thức soạn ra bộ Vãng Sinh Tịnh Độ Sám Nguyện Nghi và Vãng Sinh Tịnh Độ Quyết Nghi Hành Nguyện Nhị Môn, Trí Lễ chú thích bộ Quán Kinh Sớ của Ngài Thiên Thai, và soạn bộ Quán Kinh Diệu Tông Sao, Trí Viên trước tác bộ A Di Đà Kinh Sớ và A Di Đà Kinh Tây Tư Sao. Môn đệ của ba Ngài đều tu theo Tịnh độ giáo, như Trạch Anh soạn ra bộ Tịnh Độ Tu Chứng Nghĩa, Tôn Hiểu (1151 - 1214) soạn bộ Lạc Bang Văn Loại và Lạc Bang Di Cảo, Giới Châu trước tác bộ Tịnh Độ Vãng Sinh Truyện, Ngài Chí Bàn viết bộ Tịnh Độ Lập Giáo Chí v.v.
Ngài Nguyên Chiếu thuộc Luật tông và đệ tử của Ngài cũng nhiệt tâm tu cả Tịnh độ giáo. Ngài Nguyên Chiếu soạn ra các bộ Quán Kinh Nghĩa Sớ và A Di Đà Kinh Sớ.
Về Thiền tông, trước hết có Ngài Diên Thọ đề xướng tư tưởng “Niệm thiền nhất chí”, nghĩa là niệm Phật và Thiền định dung hòa với nhau, rồi đến Tôn Di, Tôn Bản, Pháp Tú, Nghĩa Hoài cũng là những nhân vật thuộc tư tưởng đó. Về giới cư sĩ nối tiếp tư tưởng “Niệm thiền nhất chí” ở đời Tống cũng có rất nhiều. Người đại biểu cho tư tưởng đó là Dương Kiệt, Vương Nhật Hưu v.v. Vương Nhật Hưu trước tác cuốn Long Thư Tịnh Độ.
Tán Ninh: Đời Tống có Ngài Tán Ninh, cũng là một nhân vật hoạt động như Diên Thọ đời Bắc Tống. Ngài thông hiểu cả “Nam Sơn luật” và kinh sử bách gia chư tử, được Tống triều tín nhiệm, nhận chức Hữu Nhai Tăng Lụ để thống xuất toàn thể giáo đoàn Phật giáo. Ngài trước tác được những bộ Tống Cao Tăng Truyện (30 quyển), Đại Tống Tăng Sử Lược (3 quyển) là những bộ sử truyện rất có giá trị của Phật giáo.
Hội niệm Phật: Tịnh độ giáo ở đời Tống có Ngài Chí Bàn trước tác bộ Phật Tổ Thống Kỷ là tổ thứ bảy của dòng Tuệ Viễn, và Ngài Diên Thọ là tổ thứ năm của dòng Thiện Đạo, hai Ngài tận lực truyền bá tư tưởng Tịnh độ giáo, nên có các hội niệm Phật giống như tổ chức “Liên Xã” của Ngài Tuệ Viễn đời Đông Tấn. Hơn nữa, vì Tịnh độ giáo đời Tống thuộc về môn tu phổ thông cho cả các tông và dân chúng, không phải chỉ thuần túy như Tịnh độ giáo của đời Tùy, Đường nên các hội niệm Phật xuất hiện rất nhiều. Trước hết có Tỉnh Thường chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang) lập ra Tịnh Hạnh Xã, Tuân Thức ở chùa Bảo Vân (Chiết Giang) lập ra hội Tịnh độ, Trí Lễ ở viện Diên Khánh lập ra “Niệm Phật tịnh xá”, Linh Chiếu ở chùa Siêu Quả (Chiết Giang) lập ra “Liên xã”, hội viên có hơn hai vạn người, Đạo Thâm ở Nam Hồ dựng ra “Tịnh độ kế niệm hội”, cư sĩ Vương Trung ở Hàng Châu lập “Liên xã”, cư sĩ Phùng Ấp dựng ra “Kế niệm hội” ở Tứ Xuyên, và cư sĩ Trương Luân ở Từ Châu lập ra “Bạch Liên xã” v.v. Những hội niệm Phật kể trên đều có mục đích khuyến khích nhau niệm Phật để cầu vãng sinh Tịnh độ.