Sự nghiệp phiên dịch kinh điển, sau đời Đức Tông nhà Đường, trải qua gần 100 năm bị gián đoạn, nhưng tới đời nhà Tống thì các vị tăng hoặc từ Ấn Độ tới, hoặc từ Tây Vực tới rất đông, những vị đáng chú ý nhất là Ngài Mạn Thù Thất Lợi (Mànjusrì) và Ngài Pháp Thiên (Dharmadèva) đều là người Trung Ấn đã tới vào thời vua Thái Tổ; Ngài Thiên Tức Tai người nước Ca Thấp Di La (Kasmira), Ngài Thi Hộ (Dànapàla) người nước Ô Điển Nang (Udyàna, một nước ở phía Tây Bắc Ấn) tới vào đời vua Thái Tông; Ngài Pháp Hộ (Dharmaraksa) và Ngài Nhật Xứng (Sùryayas’as) người Trung Ấn tới vào thời vua Chân Tông; Ngài Trí Cát Tường (Jnànasrì) tới vào đời vua Nhân Tông. Sau khi tới Trung Quốc, các Ngài đều chuyên về việc phiên dịch kinh điển. Những kinh điển phiên dịch ở thời đại này, tổng số có 600 quyển, nhưng đều là những kinh điển phụ thuộc, còn những kinh điển trọng yếu đã được dịch cả từ đời Đường.
Kinh Điển Mục Lục: Những kinh điển đã được dịch ra ở nhà Tống, được khắc ván ấn hành từ Viện in kinh, và được xếp thứ tự, nên có những bộ Kinh Điển Mục Lục ra đời. Như năm Đại Trung Tường Phù thứ 8 (1015) đời vua Chân Tông có Dương Ức và Duy Tịnh soạn bộ Đại Trung Tường Phù Pháp Bảo Lục (22 quyển), năm Thiên Thánh thứ 4 đời vua Nhân Tông, Duy Tịnh lại vâng sắc soạn ra bộ Tân Dịch Kinh Âm Nghĩa (70 quyển) và bộ Thiên Thánh Thích Giáo Tổng Lục (3 quyển).
Trên phương diện sử học của Phật giáo còn có những bộ Thích Thị Yếu Lãm của Đạo Thành, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của Đạo Nguyên, Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện của Tuệ Hồng, Liên Đăng Hội Yếu của Ngộ Minh, Gia Thái Phả Đăng Lục của Chính Thụ, Ngũ Đăng Hội Nguyên của Phả Tế, Thuyết Pháp Chính Tông Ký của Khế Tung, Long Hưng Phật Pháp Biên Niên Thông Luận của Tổ Tú, Thích Thị Thông Giám của Bản Giác, Thích Môn Chính Thống của Tôn Giám, Phật Tổ Thống Kỷ của Chí Bàn, Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập của Pháp Vân v.v., đều là những tác phẩm hiện còn, làm những kim chỉ nam cho các sử gia hậu thế.