VXuất bản Đại Tạng Kinh

Đại Tạng Kinh: Sự nghiệp huy hoàng nhất của Phật giáo đời Tống là sự nghiệp khắc ván ấn hành bộ Đại Tạng Kinh. Về kỹ thuật ấn loát của Trung Quốc tuy bắt đầu có từ đời Đường, cũng đã ấn hành được ít nhiều kinh điển, nhưng chưa được thịnh hành và phổ cập. Tới đời nhà Tống, nhờ sự nhiệt tâm bảo hộ của vua Thái Tổ, nên bộ Đại Tạng Kinh đầu tiên của Phật giáo gồm hơn 5.000 quyển được xuất hiện. Sự ấn loát vĩ đại này, được liệt vào sự nghiệp vĩ đại của lịch sử ấn loát thế giới. Từ thời vua Thái Tổ trở về sau, có rất nhiều người noi theo gương đó, nên trong đời Tống đã có năm lần khắc ván ấn hành Đại Tạng Kinh.

Thục Bản: Lần thứ nhất ở năm Khai Bảo thứ 4 (971) đời vua Thái Tổ, vua sắc Trương Tòng Tín khai bản khắc bộ Đại Tạng Kinh ở Thành Đô thuộc đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên), tới năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (983) đời vua Thái Tông, trong khoảng 12 năm thì hoàn thành. Bộ Đại Tạng này tổng số có hơn 5.000 quyển. Sau khi ấn loát xong, thì ban phát đi các nơi. Bộ này thường gọi là Thục Bản và là bộ Đại Tạng Kinh lịch sử đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc.

Đông Thiền Tự Bản: Lần thứ hai niên hiệu Nguyên Phong thứ 3 (1080) đời vua Thần Tông, có Ngài Tuệ Không Đại sư trụ trì chùa Đông Thiền ở Phúc Châu (tỉnh Phúc Kiến) cũng bắt đầu khắc ván ấn hành Đại Tạng Kinh, và đệ tử của Ngài cũng kế thừa sự nghiệp đó, tới năm Sùng Ninh thứ 3 (1104), đời vua Huy Tông, trong khoảng 24 năm thì hoàn thành. Và từ đó tới năm Chính Hòa thứ 2 (1112), lại truy ra những bộ Tân Chương Sớ của Thiên Thai tông, nên bộ Đại Tạng này gồm có hơn 6.000 quyển, thường gọi là Đông Thiền Tự Bản.

Khai Nguyên Tự Bản: Lần thứ ba niên hiệu Chính Hòa thứ 2 (1112) đời vua Huy Tông, lại có Ngài Bản Ngộ và Bản Minh, bắt đầu san khắc Đại Tạng Kinh ở chùa Khai Nguyên, Phúc Châu, tới năm Thiệu Hưng thứ 16 (1146) đời Cao Tông Nam Tống thì hoàn thành, tổng số có hơn 6.000 quyển. Bộ này thường gọi là Khai Nguyên Tự Bản.

Tư Khê Bản: Lần thứ tư niên hiệu Thiệu Hưng thứ 2 (1132) đời Cao Tông Nam Tống, có Ngài Tịnh Phạm, Hoài Thâm cũng bắt đầu khắc Đại Tạng Kinh ở viện Viên Giác Thiền tại Tư Khê, Hồ Châu (tỉnh Chiết Giang), phí tổn khắc bộ này, do sự ủng hộ của một hào tộc Vương Vĩnh Tòng tại Hồ Châu, tổng số có 6.000 quyển, thường gọi là Tư Khê Bản. Sau viện Viên Giác Thiền lại đổi tên là chùa Tư Phúc Thiền, và bộ Đại Tạng đó lại được khắc thêm, nên lại có tên là Tư Phúc Thiền Tự Bản.

Tích Sa Bản: Lần thứ năm niên hiệu Thiệu Định thứ 4 (1231) đời vua Lý Tông Nam Tống, có Ni Hoằng Đạo ở chùa Diên Khánh tại Tích Sa (tỉnh Giang Tô), cũng phát nguyện khắc Đại Tạng Kinh, và đệ tử của Ngài kế tiếp sự nghiệp đó, tới khoảng năm Chí Đại thứ 3 (1310) đời vua Võ Tông nhà Nguyên thì hoàn thành, gồm có 6.362 quyển. Nhưng bộ Đại Tạng này tới cuối đời Nguyên bị thiêu hủy vì chiến loạn, nên không biết được toàn diện của bộ đó, và thường gọi là Tích Sa Bản.

Phả Ninh Tự Bản: Từ cuối đời Nam Tống tới đầu nhà Nguyên lại có Phả Ninh Tự Bản ra đời. Bộ này bắt đầu khắc từ năm Hàm Thuần thứ 5 (1269) đời vua Độ Tông Nam Tống, khai bản ở chùa Phả Ninh thuộc Hàng Châu, tới năm Chí Nguyên thứ 22 (1285) đời Thái Tổ nhà Nguyên thì hoàn thành, tổng số có 6.017 quyển, thường gọi là Phả Ninh Tự Bản.

Hoằng Pháp Tự Bản: Bộ Đại tạng này được khai bản từ năm Chí Nguyên thứ 14 (1277) đời Thế Tổ nhà Nguyên tại chùa Hoằng Pháp ở Bắc Kinh (tỉnh Hồ Bắc), tới năm Chí Nguyên thứ 31 (1294) thì hoàn thành tổng số có 7.182 quyển, thường gọi là Hoằng Pháp Tự Bản.

Cao Ly Bản: Sau khi bộ Thục Bản ra đời được ít năm, có Hàn Ngạn Cung người Cao Ly tới nhà Tống thỉnh được bộ đó đem về nước. Năm Hiển Tông thứ 2 (1011) triều vua Cao Ly, vua sắc lệnh cho nhóm của ông Thôi Sĩ Thành, khai bản khắc Đại Tạng Kinh của nước mình, tới đời vua Văn Tông thứ nhất (1047) thì hoàn thành, gọi là Sơ Điêu Tạng Bản. Sau lại có Tăng Thống Nghĩa Thiên đời Tuyên Tông thứ 2 (1085) tới nước Tống, lại thu thập được rất nhiều kinh điển, chương sớ mang về và soạn thành quyển Nghĩa Thiên Mục Lục để khắc thêm vào bộ kể trên mà thành bộ Đại Tạng Kinh của Cao Ly gồm 5.924 quyển. Bộ này tới năm 1232 bị quân Mông Cổ tràn tới Cao Ly đốt cháy, nên từ năm 1236 đến năm 1251 lại tiếp tục khắc lại, gọi là Tái Điêu Bản, gồm có 639 hòm, 6.577 quyển. Đời sau thường gọi bộ này là Cao Ly Tạng Kinh.