Từ khi nhà Kim diệt vong trở về sau, dân tộc Mãn Châu bị lệ thuộc vào nhà Minh, nhưng tới đời vua Thần Tông, trong bộ tộc Nữ Chân (Kim) có Nỗ Nhĩ Cáp Xích xuất hiện, thống nhất được các bộ lạc ở Mãn Châu, rồi tự xưng là Hoàng đế (1616), lấy quốc hiệu là Hậu Kim, đó là vua Thái Tổ nhà Thanh. Sau Thái Tổ lại chiếm lĩnh Liêu Dương và Thẩm Dương (Phụng Thiên) lấy đó làm kinh đô (1628). Đời vua thứ hai là Thái Tông, vua lại đổi quốc hiệu là Đại Thanh vào năm Thiên Thông thứ 10 (1636). Đời vua thứ ba là Thế Tổ, vua đem quân tiêu diệt được phản tướng nhà Minh là Lý Tự Thành, rồi thiên đô ra Bắc Kinh (1644), sau diệt được dòng dõi hoàng thất nhà Minh còn chống cự ở vùng Giang Nam (1662), thống nhất hoàn toàn lãnh thổ Trung Quốc. Nhà Thanh gồm có 12 đời vua, trị vì thiên hạ được ngót 300 năm, tới đời vua Tuyên Thống thì bị quân cách mạng của Tôn Văn lật đổ chính quyền vào tháng 12 năm 1911. Sau khi lật đổ chính quyền, Tôn Văn nhậm chức Đại Tổng Thống lâm thời, và ban bố chính thể Cộng hòa, tức là Trung Hoa Dân Quốc. Năm sau, vua Tuyên Thống phải thoái vị và công nhận chính quyền Cộng hòa.
Phật giáo đời Thanh, Lạt Ma giáo được phát triển hơn, vì được Thanh triều nhiệt liệt ủng hộ. Phật giáo truyền thống trong khoảng bốn đời vua Thế Tổ Thuận Trị, Thánh Tổ Khang Hy, Thế Tông Ung Chính, Cao Tông Càn Long cũng được sự tôn sùng và ủng hộ của nhà vua nên cũng được phát triển. Nhất là Thiền tông và Tịnh độ tông rất thịnh hành. Riêng về giáo học của Phật giáo thì không có gì mới lạ, chỉ duy trì các học thuyết của tiền nhân. Trong giới Phật giáo lại không có nhân tài xuất hiện, Tăng Ni không có chí hoằng pháp. Hơn nữa, Phật giáo lại bị pháp nạn phá hủy của loạn “Thái Bình Thiên Quốc”, nên Phật giáo ở đời Thanh đã bước xuống dốc suy vi.