Về sự nghiệp xuất bản Đại Tạng Kinh ở đời nhà Thanh đại lược như sau:
Tục Tạng Kinh: Vào niên hiệu Khang Hy thứ 5 (1666) đời vua Thánh Tổ, bắt đầu khắc Tục Tạng Kinh, gồm có 93 pho, 1,833 quyển, để bổ sung vào bộ Vạn Lịch Bản đời Minh. Nhưng sau lại tiếp tục khắc thêm một Tục Tạng Kinh nữa, có 47 pho, gồm 1246 quyển, để tăng bổ vào Tục Tạng Kinh trước. Như vậy, Vạn Lịch Bản gọi là Minh Bản và Tục Tạng Kinh này, gọi là Minh Tục Tạng và Tục Minh Tục Tạng.
Bản Long Tạng: Bộ này được khởi công khắc từ năm Ung Chính thứ 13 (1735) đời vua Thế Tông, đến năm Càn Long thứ 3 đời vua Cao Tông thì hoàn thành. Bản khắc của bộ kinh này là lấy ở bản Bắc Tạng đời Minh làm căn bản. Tổng số có 735 hòm, 7838 quyển, thường gọi là bản Long Tạng.
Mãn Châu văn Đại Tạng Kinh: Sự nghiệp của vua Cao Tông Càn Long đối với việc xuất bản Đại Tạng Kinh, ngoài bản Long Tạng, còn hoàn thành Tạng Kinh dịch ra tiếng Mãn Châu, gọi là Mãn Châu Dịch Ngữ Đại Tạng Kinh. Vì vào năm Thiên Thông thứ 6 (1632) đời vua Thái Tông có học giả Đạt Hải, nương vào tiếng Mãn Châu mà chế định ra thứ chữ Mãn Châu, gọi là “Mãn Châu văn”. Vua Càn Long có ý định muốn dịch Đại Tạng Kinh sang chữ gốc của nước mình, nên hạ sắc lệnh khắc từ năm Càn Long thứ 38 (1173) đến năm Càn Long thứ 55 (1790) chỉ có trong khoảng 18 năm trời mà hoàn thành. Bộ này thường gọi là Mãn Châu Dịch Ngữ Đại Tạng Kinh hoặc Mãn Châu Văn Đại Tạng Kinh.
Bản Tần Già: Bộ này khởi công khắc từ năm Tuyên Thống thứ 3 (1911) ở Tinh xá Tần Già Thượng Hải, phiên khắc lại bộ Súc Loát Tục Tạng của Nhật Bản, nhưng thêm bớt ít nhiều, và loại bỏ những hàng chữ chú thích, hiệu đính, so sánh với các bản khác được ghi ở đầu quyển, làm giảm mất giá trị nghiên cứu. Bộ này được khắc bằng chữ trì, theo lối chữ “Tứ hiệu hoạt tự” nên chữ to, dễ đọc tụng, đó là bộ Đại Tạng đầu tiên được in bằng “hoạt bản” và thường gọi là bản Tần Già.