Năm Dân Quốc thứ 56 (1967), trong lời tựa của tác phẩm Nghiên cứu về luận thư và luận sư của Thuyết nhất thiết hữu bộ tôi có viết: Tác phẩm Phật giáo Ấn Độ do tôi soạn trong thời chiến loạn, “viết bằng văn ngôn, phần nhiều theo lối tường thuật, ít nêu dẫn chứng, đối với lịch sử Phật giáo mà nói, viết theo thể thức đó không thích hợp cho lắm, đồng thời những sai sót và cách nhìn thiển cận cũng không phải ít, nên tôi phải dùng ngữ thể và dẫn chứng cụ thể để viết lại”. Nhưng mãi đến nay, đã hai mươi năm lần lữa trôi qua, ngoài bộ Nghiên cứu về luận thư và luận sư của Thuyết nhất thiết hữu bộ ra, tôi chỉ soạn một số tác phẩm: Sự tập thành thánh điển của Phật giáo nguyên thủy, Khởi nguyên và quá trình triển khai của Phật giáo Đại thừa thời kỳ đầu, Nghiên cứu về Như Lai tạng, Tham cứu về Không. Những năm cuối đời thì đổ bệnh, ý nguyện “viết lại một bộ” có phân ra các tập thực tế là không thể làm được, vì thế ba năm trước, tôi tái bản tác phẩm Phật giáo Ấn Độ. Trong quá trình soạn những tác phẩm trên, tuy tôi có bổ sung, đính chính một số điểm sai sót và những điểm thiển cận tồn tại trong cuốn Phật giáo Ấn Độ, nhưng một số vấn đề có liên quan đến sự diễn biến của Phật giáo Ấn Độ vẫn chưa trình bày một cách tổng hợp, rõ ràng và xuyên suốt được. Vì thế, tôi cứ cảm thấy tâm nguyện chưa thành. Nay, theo những hiểu biết của mình, tôi xin viết ra những điểm chính yếu trong cuốn sách này.
Trong quá trình lưu truyền và phát triển Phật pháp, Phật pháp Đại thừa đã xuất hiện và dần dần diễn tiến thành Phật pháp Đại thừa Bí mật. Động lực thúc đẩy chủ yếu cho việc phát triển này là: “Sau khi đức Phật vào Niết bàn, hàng đệ tử hoài niệm khôn nguôi về Ngài”. Hoài niệm là thông qua tình cảm, tuy nhiên cũng có thể có một phần của sự tưởng tượng. Thời đại cách đức Thế Tôn càng xa thì sự tưởng tượng ngày càng nhiều và phong phú, đây là sự thực trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ.
Sự hoài niệm của hàng đệ tử đối với đức Thế Tôn ban đầu là bày tỏ niềm tin kính và tưởng nhớ đến di thể của Ngài như: xây dựng và cúng dường tháp Xá lợi, tuần hành chiêm bái những thánh tích của Ngài. Những đại hạnh của Bồ tát trong kiếp quá khứ của đức Thế Tôn cũng được lưu truyền từ trong các kinh Bổn sinh, Thí dụ và Nhân duyên. Sự vĩ đại của đức Phật và sự vĩ đại lúc hành đạo Bồ tát trong kiếp quá khứ của Ngài được khơi nguồn từ sự hoài niệm khôn nguôi về Ngài của hàng đệ tử, đã trở thành niềm tin đồng nhất trong giới Phật giáo. Niết bàn! Đức Thế Tôn đã nhập Niết bàn rồi! Sự hoài niệm này không tồn tại như sự tưởng tượng đến một vị thần linh trong thần giáo; nhưng thông thường, khi đối diện với việc đức Phật đã vào Niết bàn, nghĩa là không còn thấy được hình bóng khả kính của Ngài nữa, thì hàng tín chúng không tránh khỏi buồn thương trong lòng.
Thái độ tự do nhưng xem trọng về lý tưởng của Đại chúng bộ cho rằng: “Sự tồn tại của đức Thế Tôn là bất khả tư nghì, tuổi thọ của Phật là vô lượng, mười phương thế giới trong hiện tại đều có Phật xuất thế”. Những lời này nhiều ít đã thỏa mãn được mong ước của mọi người. Phật pháp Đại thừa đã xuất hiện trong tình hình như thế!
Chính pháp được đức Thế Tôn khai thị: “Trước phải biết Pháp trụ, sau mới biết Niết bàn”. Hành giả tu tập, trước phải thấu triệt về tính tất yếu của nhân quả, biết như thật về duyên khởi; nương duyên khởi mà biết vô thường, vô ngã và vô ngã sở, tu hành giải thoát cứu cánh, đó là Niết bàn tịch diệt. Niết bàn không rơi vào hữu vô, không phải dùng ý thức hay ngôn ngữ mà có thể biểu đạt được, mà do tu hành tự giác và tự chứng biết. Kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu lấy đại hạnh của Bồ tát làm chủ, tiếp nối trọng tâm chính pháp của Phật pháp, nhưng Phật pháp là “trước phải biết Pháp trụ, sau mới biết Niết bàn”. Trong khi đó, kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu lại hiển bày thẳng nghĩa sâu xa, tức Niết bàn, Không tính, Chân như, Pháp giới, v.v. đều là tên khác của Niết bàn. Cho nên, duyên khởi là bước đầu tiên vào Phật pháp, Đại thừa thời kỳ đầu nêu thẳng bản tính tịch diệt của các pháp. Bản tính của các pháp là không hai không khác, không chấp trước, không ngăn ngại, lìa tất cả sự đối đãi. Từ sự hoài niệm về đức Phật mà kinh điển Đại thừa thời kỳ cuối ra đời, khẳng định tất cả chúng sinh đều có Như Lai tạng ngã, tự tính thanh tịnh tâm. Như thế, chính pháp bắt đầu từ duyên khởi luận mà phát triển thành pháp tính luận, chỉ cho tất cả các pháp bình đẳng không có sự ngăn ngại. Từ pháp tính luận mà diễn hóa thành Phật tính bổn cụ luận (Phật tính hay Như Lai tạng vốn đầy đủ). Tiến thêm một bước nữa chính là tất cả chúng sinh xưa nay vốn là Phật rồi. Đây là tiến trình diễn tiến trọn vẹn từ pháp đến Phật qua quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo.
Phật pháp sâu xa, Duyên khởi sâu xa, Niết bàn càng sâu xa hơn, người bình thường khó có thể nắm bắt được. Để phương tiện phổ cập giáo hóa mà thiết lập pháp môn sáu niệm (niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên), để khi mọi người không may gặp những chuyện như: sợ sệt, khổ não hoặc lâm trọng bệnh có thể giúp cho nội tâm được an định, không để mất niệm thiện, điểm này gần giống với các tôn giáo khác. “Niệm (là ức niệm, buộc niệm và quán niệm) Phật” là điểm phát triển rất đặc sắc! Sau khi Đại thừa hưng khởi không bao lâu thì việc hội họa, điêu khắc tượng Phật được lưu hành đến khu vực các quốc gia như Kiền Đà La, Ma Du La, v.v. Niệm Phật phương tiện, quá khứ là nhớ nghĩ công đức của Phật, hiện tại là nương vào tướng (tượng Phật) mà nghĩ đến sắc thân của đức Phật. Nhất tâm buộc niệm là đức Phật hiện lên ở trong tâm; căn cứ vào việc tu niệm như thế thì đạt được lý luận “tự tâm là Phật”, “ba cõi do tâm tạo”. Đại thừa thời kỳ cuối nói: Như Lai tạng, Ngã là tướng hảo trang nghiêm, tự tính thanh tịnh tâm là thanh tịnh quang minh, những cái ấy đều đầy đủ trong mỗi chúng sinh, cho nên niệm Phật không chỉ là niệm ba đời mười phương Phật, việc cần thiết là niệm (quán) vị Phật ở trong chính bản thân mình. Pháp môn “Niệm Phật” là con đường xuyên suốt từ Đại thừa thời kỳ đầu, qua đến Đại thừa thời kỳ cuối và tiến vào Phật pháp Đại thừa Bí mật.
Bồ tát phát tâm Bồ đề, ở lâu trong sinh tử tu tập những hạnh khó làm, những hạnh lớn lao, tinh thần đó vĩ đại vô cùng! Với những người bình thường mà nói thì đó là điều tâm hâm mộ và hướng vọng đến, nhưng cũng khó có đủ sức lực để đảm nhận. Vì thế, thừa kế phương tiện của Phật pháp, mở ra cánh cửa sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ và hồi hướng đến quả vị Bồ đề, đây là nghĩa rộng của pháp môn Niệm Phật, dễ dàng cho những người phát tâm vào đạo, và cũng là phương tiện trưởng dưỡng thành pháp khí Đại thừa. Thông thường, pháp môn Niệm Phật phương tiện chủ yếu là chú trọng vào việc xưng danh hiệu Phật, nhờ đó mà có thể “tiêu trừ được nghiệp chướng”, được “sinh qua cõi Tịnh độ của Phật”, và sẽ “không thoái chuyển đối với đạo Bồ đề”, gặt hái được rất nhiều lợi lạc trong đời sống hiện tại.
Trước, sau Công nguyên, việc sao chép kinh điển được thịnh hành. Để việc này được lưu thông rộng rãi, trong kinh đã nhiệt liệt tán dương những việc tán tụng, viết chép và cúng dường kinh điển, sẽ có được nhiều phước lạc trong hiện đời. Bát nhã là vua của tất cả các “kinh chú”, vượt hơn tất cả các thần chú khác, cũng chính là thừa nhận những thần chú tồn tại ở trên thế gian. Lấy việc xướng niệm các tự mẫu để làm phương tiện ngộ nhập vô sinh pháp nhẫn. Truyền bá Phật pháp bằng âm thanh của kinh điển Đại thừa như: xướng tụng các tự mẫu, xưng niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, trì chú, v.v. là phương tiện để đưa Phật pháp phổ cập vào nhân gian của Phật pháp Đại thừa.
Việc “niệm thiên” được nói đến trong Phật pháp, trong Bồ tát bổn sinh kinh, đức Phật từng hiện thân trong các loài trời, quỷ thần và súc sinh để tu hành. Phật pháp Đại thừa cũng từ đó mà xuất hiện “Bồ tát làm thân trời” (đại lực quỷ vương, các loài súc sinh bậc cao). Các trời Đế Thích thường nói chú Đà la ni, tức minh chú hộ pháp, ngôn ngữ của thần chú từ đó mà dần dần được coi trọng. Trong các kinh như Lăng già của Đại thừa thời kỳ cuối đã tiến thêm một bước, nêu ra: thiên, quỷ thần, cổ tiên trong tín ngưỡng dân gian Ấn Độ đều là tên gọi khác của Phật, đều do Phật thị hiện, điều này đã đặt nền tảng cho lý luận “Phật và Thiên nhất như”.
Kể từ thế kỷ II, Ấn Độ giáo dần dần phục hồi, đạo phương tiện của Phật pháp Đại thừa và khuynh hướng quả đức của Như Lai đã thích ứng với tình thế ngoại tại, và cũng từ đó đã phát triển thành Phật pháp Đại thừa Bí mật, phần nhiều có sự tương thông với thần (thiên) giáo. Như giáo điển không gọi là “kinh”, mà gọi là “Hằng đát la” (tục), tiếp nhận sự truyền thụ về thể thức của Áo nghĩa thư, địa vị của sư trưởng được xem trọng trở lại. Chú là chân ngôn của Phật và Bồ tát, là “Mật ngữ”; Thủ ấn của thần giáo cũng được hình thành trong Phật giáo, đó là “Thân mật”; Hộ ma hỏa cúng (phương thức thiêu đốt những cúng phẩm để cúng dường Bổn Tôn, phương thức này bị cấm ở trong Phật pháp), trở thành sự nghiệp quan trọng của tự lợi lợi tha. Tín ngưỡng quỷ thần của nhân gian đã tiến sâu vào trong nội các của Đại thừa Bí mật: với Bồ tát cõi trời tay cầm vũ khí, tướng mạo giận dữ (hoặc do Phật thị hiện). Phái Thấp bà thiên có sự sùng bái về “tính lực”, Đại thừa Bí mật cũng có sự “hai thân ôm nhau giao hợp” mà tục gọi là Phật hoan hỷ. Thích ứng và dung nhiếp thần giáo, cụ thể hóa về “Phật trời nhất như” là điểm đặc sắc của Đại thừa Bí mật.
Thực hành lý tưởng đại hạnh của Bồ tát trong Phật pháp Đại thừa là vô cùng khó, thông thường xem trọng về vấn đề “niềm tin”, bởi đó là “đạo dễ hành”. May thay Như Lai tạng, tức trí tuệ và sắc tướng trang nghiêm của Phật xưa nay vốn đầy đủ, tương thông với “tâm ấy làm Phật” và tự tâm là Phật của pháp môn Niệm Phật, nên Đại thừa Bí mật mới chủ trương quán tự thân là Phật - Thiên mạn, và phát triển lên thành “thừa dễ hành”, “tức thân thành Phật”. Tức thân thành Phật không cần phải tu đại hạnh cứu độ chúng sinh của Bồ tát, mà là đợi thành Phật rồi sau đó trở lại hóa độ chúng sinh. Quan điểm không cần phải tu “hạnh khó làm”, quả Phật có thể mau chứng của Đại thừa Bí mật, đối với người bình thường mà nói thì thật là quá tuyệt vời!
Trong kinh Đại thừa, chư Phật và Bồ tát trong mười phương thế giới là nhiều vô số kể, lại thêm vào rất nhiều các vị thần của Ấn Độ giáo, như thế không tránh khỏi sự tạp loạn. Đại thừa Bí mật đã phân thành thứ tự có tổ chức, như Du già tục lấy Phật Tỳ Lô Giá Na làm trung ương, và bốn vị Phật khác ngự tại bốn phương, phân thành năm bộ (tộc) thống nhiếp hết tất cả. Năm phương năm Phật là mô phỏng phương thức tập hội của cõi trời Đao Lợi: Đế Thích là ở trung ương, bốn phương có bốn Đại Thiên Vương ngồi. Đế Thích là vị Dạ Xoa cầm chày kim cang. Dạ Xoa xưa nay phân làm năm bộ tộc. Dạ Xoa Vương - Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ, Kim Cang Tạng, Phổ Hiền (cưỡi voi trắng sáu ngà, tương đồng với Đế Thích), là những bậc đương cơ của Đại thừa Bí mật. Đao Lợi và bốn Đại Thiên Vương cùng chúng trời là thuộc Địa cư thiên của Dục giới, là trú xứ của tám bộ trời rồng (quỷ thần, súc sinh). Dục giới có dâm dục, Địa cư thiên thì chỉ cần thân thân chạm nhau là thành dâm dục nhưng không xuất tinh, chính như Vô thượng Du già tục, tu luyện sắc thân của cõi trời, tham dục là cảnh giới lý tưởng của đạo. Đại sư Thái Hư gọi Đại thừa Bí mật là “nương vào hạnh quả của Thiên thừa mà thú hướng đến Phật quả”, đây là Đại thừa không lấy việc con người làm gốc nữa, mà thích ứng với thần giáo của Ấn Độ, nên lấy pháp thiên (quỷ thần) làm gốc.
Trên đây là tình hình của kinh pháp Đại thừa; quá trình phân biệt tuyển chọn kinh văn trở thành điều lệ cho việc luận giải nghĩa lý một cách nghiêm mật (luận nghĩa cũng ảnh hưởng đến những kinh điển về sau).
Luận Đại thừa có:
1. Hệ Trung quán:
Nêu thẳng giáo nghĩa sâu xa của Đại thừa thời kỳ đầu. Vấn đề này khiến học giả rất dễ bước vào ngã rẽ. Long Thọ đứng ra soạn luận, nói rõ Duyên khởi không tự tính nên là “không”; lấy “Trung đạo, Duyên khởi” của Phật pháp để xuyên suốt “Tính không và chỉ có (giả) danh” của Phật pháp Đại thừa. Long Thọ nói: “Nếu không nương vào tục đế thì không thể có được thắng nghĩa đế”, đây là trở lại với lập trường của Phật pháp, tức là “trước phải biết Pháp trụ sau mới biết Niết bàn”. Cho nên Trung quán là chính quán ba thừa không hai không khác, xuyên suốt điểm đặc biệt của Phật pháp và Đại thừa thời kỳ đầu.
2. Hệ Du già hành:
Vô Trước căn cứ vào Giải thâm mật kinh (văn thể gần với luận), v.v. mà soạn luận: chủ trương “tất cả pháp không” của Đại thừa thời kỳ đầu là thuyết bất liễu nghĩa, Duyên khởi - tướng của Y tha khởi là tự tướng thật hữu; Như Lai tạng, Ngã của Đại thừa thời kỳ cuối là tên khác của chân như. Điểm đặc sắc của hệ Du già hành là căn cứ vào (“phân biệt tự tính Duyên khởi” của) hư vọng phân biệt mà lập ra “Duy thức sở hiện”. Để luận chứng cho vấn đề “Duy thức sở hiện” mà Trần Na và Pháp Xứng phát triển thành Lượng luận và Nhân minh luận, nói đến việc chuyển tạp nhiễm thành thanh tịnh, lập ra “Ba thân” và “Bốn trí” của Phật; Phật quả là luận đề cốt yếu của giới Phật giáo đương thời.
Hai hệ Trung quán và Du già hành đều nêu rõ hai phương diện Như thật và Phương tiện, nhiều ít cũng có điều chỉnh lại một số lệch lạc của giới Phật giáo. Điều không may là vì Long Thọ nói “Duyên khởi vô tự tính” mà Vô Trước nói “Tự tướng của Duyên khởi là có thật”, đã dẫn đến vô số cuộc tranh luận giữa giới học giả sau này, đánh mất tinh thần “vô tranh” của Phật pháp.
3. Hệ Như Lai tạng:
Như Lai tạng, Ngã, Tự tính thanh tịnh tâm lại gần với chân ngã, chân tâm của thần giáo, thích ứng với thế tục mà lưu hành. Cứu cánh nhất thừa thật tính luận của Kiên Tuệ, tuy chịu ảnh hưởng các luận điển của Vô Trước, nhưng lại không hề đề cập đến Chủng tử và Duy thức. Luận nêu ra bốn pháp: “Phật giới” là vốn có Như Lai tạng; “Phật Bồ đề”, “Phật pháp”, “Phật sự nghiệp” là Như Lai tạng lìa nhiễm, hiển lộ Phật thể, Phật đức và nghiệp dụng của Phật. Có học giả lại đem dung nhiếp “năm pháp, ba tự tính, tám thức, hai vô ngã” của phái Du già hành, đem A lại da thức - tạng thức hư vọng kết hợp với Như Lai, đề xướng “Như Lai tạng tàng thức tâm”. Lấy chân thường làm nơi y chỉ để nói duy tâm, văn thể gần với Lăng già kinh và Mật nghiêm kinh. Thật tướng luận là nói rõ về nhân, quả, thể, dụng của Phật, Mật nghiêm kinh nói Như Lai tạng là cảnh giới của người niệm Phật tam muội, cũng chính là quán tự thân xưa nay vốn là Phật. Đại thừa Bí mật về sau tiếp thu Trung quán và Du già, thừa kế thuyết Như Lai tạng, từ phương diện tín ngưỡng và tu hành mà phát triển lên một cách hoàn mỹ.
Thường thì lịch sử tư tưởng của Phật giáo (học) Ấn Độ chú trọng vào phương diện luận nghị. Luận là phân biệt quyết trạch, tầng cao của lý luận là không thể phổ cập chung cho tất cả. Thời kỳ cuối của Phật pháp Đại thừa, luận học của trường đại học Na Lan Đà trở thành quyền uy của Phật giáo, song rất xem trọng tín ngưỡng, xem trọng tha lực, xem trọng sự tướng, xem trọng việc tu hành, xem trọng lợi ích hiện đời của Phật pháp, chính là lấy pháp môn Niệm Phật (Phật thiên nhất như) làm trọng tâm để lưu hành phổ biến.
Những năm cuối đời, tôi đọc rất nhiều kinh điển và cảm thấy thích ứng với phương tiện làm cho lòng tin được tăng lên, như việc điêu khắc họa vẽ tượng Phật, xây dựng tháp, niệm Phật, tụng kinh, v.v. cùng những phương tiện khác tồn tại trong Phật giáo, có sự ảnh hưởng vô cùng sâu đậm đối với quá trình thay đổi của tư tưởng Phật pháp. Vì vậy, tôi từng viết cuốn Phật pháp con đường phương tiện, hơn mười vạn chữ. Tôi lại thấy rằng, như thật và phương tiện là ảnh hưởng qua lại mà có sự đổi khác, cho nên tôi lại nghĩ đến việc viết Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ. Như thật và phương tiện là hai phương diện được khai triển từ tự thân Phật pháp, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ bên ngoài - tư tưởng thần giáo, sự bất đồng về khu vực, tình huống chính trị… Nắm vững được đặc chất của Phật giáo, lý giải những vấn đề mấu chốt quan trọng trong quá trình phát triển, tất cả sự ảnh hưởng của nhiều phương diện, mới có thể biểu đạt được một cách hoàn chỉnh về chân tướng của lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ. Đây là điều mà học lực của bản thân tôi không thể đạt được, lại thêm mấy năm nay tuổi già sức yếu, trí nhớ lại giảm sút, cũng không cho phép tôi nghĩ được cấu trúc của một tác phẩm có nội dung lớn. Cho nên cuốn sách này chỉ có thể chú trọng vào tự thân của Phật pháp, trình bày một cách khái lược, và có một số vấn đề đã nói qua trong cuốn Phật giáo Ấn Độ nên không trình bày lại.
Đối với việc luận cứu về Phật giáo Ấn Độ, bản thân tôi rất muốn hiểu rõ thật nghĩa và phương tiện của Phật pháp, rồi rút ngắn lại khoảng cách giữa Phật pháp và hiện thực Phật giáo tại nhân gian. Phương tiện là chắc chắn phải có, có phương tiện thích ứng mới có thể có điều kiện thuận lợi cho việc hoằng dương Phật pháp. Song, những phương tiện không còn hợp thời, không còn thích ứng được nữa thì chúng ta nên có tinh thần “thẳng thắn xả bỏ phương tiện”, xiển dương pháp nghĩa chân thật của Phật pháp, ứng dụng phương tiện có lợi ích cho nhân gian, tịnh hóa nhân gian.
Tôi hy vọng những độc giả có lòng tin chân thành đối với Phật pháp, lúc nào cũng nên ngoái đầu nhìn lại sự diễn biến lưu truyền của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, không quên chính pháp, vì chính pháp mà nhớ nghĩ đến đức Phật ở nhân gian.
Nam Đầu Ký Lô, ngày 03 tháng 02 năm 1988
Ấn Thuận kính tựa